Xương bánh chè hổ có tác dụng gì
Tên khác: Cọp, hùm, beo, khái, ông ba mươi, tu xưa (Tày) Show Tên khoa học: Panthera tigris L. Họ Mèo (Felidae) MÔ TẢThú cỡ lớn, to khỏe có thân thẳng dài. Đầu to tròn, cổ và tai ngắn, mắt sáng, 4 chân dài khỏe, có vuốt rất sắc. Đuôi dài bằng nửa thân. Lông màu vàng, có vằn đen không đều suốt từ đầu đến chót đuôi và bốn chân phía trên. Bụng có lông trắng. PHÂN BỐ, NƠI SỐNGTrên thế giới, hổ phân bố ở Liên Xô trước đây, Ân Độ, Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Mianma, Lào, Campuchia, Việt Nam. Ở Việt Nam, hổ sống hoang dã ở các tỉnh miền núi nơi có nhiều cỏ tranh, lau lách, cây bụi, rừng già. Sống riêng lẻ chỉ ghép đôi trong thời kỳ động dục, ăn thịt các loài thú khác như hươu, nai, lợn rừng, trâu rừng, đôi khi cả những vật nuôi như bò, dê. Hổ đẻ 2 – 4 con cho mỗi lứa. Hổ đã được thuần dưỡng để làm xiếc và nuôi trong vườn thú. BỘ PHẬN DÙNG, THU HOẠCH, CHẾ BIẾNToàn bộ xương hổ gọi là hổ cốt, được coi là quý nhất trong các loại xương động vật. Trọng lượng nguyên bộ nặng từ 7 kg trở lên, xương phải to, chắc, sạch gân thịt, khô có màu vàng ngà, không vỡ vụn. Xương đầu và xương 4 chân được coi là quý hơn cả, đặc biệt hai xương cánh chân trước, mỗi chiếc có một lỗ gọi là mắt phượng hay thông thiên và răng hàm có 3 đỉnh nhô lên gọi là “tam sơn”. Đây là những nét đặc thù của xương hổ để phân biệt với các loại xương khác. Để đảm bảo chất lượng thu mua, tránh thiếu hụt và đánh tráo, người ta đã quy định các loại xương trong .toàn bộ như sau: xương đầu, xương cổ, xương sống, xương sườn, xương chậu, xương bả vai, xương đuôi, xương bánh chè. Xương hổ bị trúng độc có màu đen hoặc xanh lam, không được dùng. Toàn bộ xương hổ phải được nấu thành cao (gọi là cao hổ cốt) dùng mơi tốt. Trước khi nấu, cần kiểm tra kỹ các loại xương trong nguyên bộ cho đủ, đúng quy cách và đúng trọng lượng. Trong dân gian, người ta hay nấu xương hổ với xương gấu, khỉ hoặc sơn dương hoặc các dược liệu gốc thực vật để có sự hiệp đồng tác dụng giữa vị chủ lực với một số vị hỗ trợ và bảo đảm sự bảo quản được lâu bền. Để nấu cao, cần qua 3 giai đoạn là làm sạch, tẩm sao và nấu cô.
Cưa xương thành từng đoạn dài lOcm, chẻ nhỏ, nạo hết tủy và lổp xương xốp ở trong. Có nơi, người ta đun sôi với nước giấm (10 kg xương dùng 3 lít giấm) rồi mới nạo tủy. Rửa sạch, rồi ngâm tẩm.
Để nguội, cắt cao thành bánh chừng 50 – 100g, gói giấy bóng hay ni lông, bảo quản ở chỗ kín, khô và mát. Ngoài ra, thịt hổ, dạ dày hổ và răng hổ cũng được dùng theo các sách thuốc cổ của Việt Nam và nước ngoài. THÀNH PHẦN HÓA HỌCXương hổ chứa protid và calci dưới dạng phosphat. Cao hổ cốt chứa nhiều acid amin. CÔNG DỤNG VÀ LIỀU DÙNGXương hổ, nhất là cao hổ cốt là vị thuốc cổ điển có giá trị chữa bệnh cao trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian. Xương và cao có vị mặn, cay, hơi tanh, tính ấm, có tác dụng bổ dương, trục phong hàn, mạnh gân cốt, giảm đau nhức, trừ thấp, chuyên trị bệnh đau nhức gân xương, cơ thể suy yếu, kém hoạt động, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa cột sống. Liều dùng hàng ngày: 10 – 12g xương chưa chế biến dưới dạng thuốc sắc hoặc rượu ngâm; 4 – 8g cao hổ cốt uống với rượu. Cao hổ cốt còn được ngâm thành rượu hổ cốt cùng với nhiều vị thuốc khác. Tuệ Tĩnh còn dùng thịt hổ chữa sốt rét, nôn mửa. Hải Thượng Lãn Ông lại dùng dạ dày hổ chữa chứng phiên vị; răng hổ chữa chó dại cắn. Kiêng kỵ: Những người huyết hư, hỏa vượng, không được dùng các sản phẩm từ hổ. BÀI THUỐC
Ghi chú:
Hổ đã được đưa vào Sách Đỏ để bảo vệ triệt để. 1. Mô tả: Thú ăn thịt, cỡ lớn, to và khỏe, nặng 100- 150 kg. Thân thẳng, dài 1,3 – 1,6m. Đầu to, cổ và tai ngắn, mắt sáng, chân dài khỏe, có móng vuốt nhọn và sắc. Đuôi dài 0,6m – 0,7m. Bộ lông màu vàng nhạt đến vàng sẫm hơi nâu, có vằn đen hoặc nâu đen, toàn đuôi có vòng nâu đen không đều. Phía bụng, sau tai, cằm và họng màu trắng nhạt. Còn có hổ bạch (rất hiếm). Căn cứ vào các đặc tính của hình thái, màu sắc, đường vằn, bộ lông, các nhà khoa học đã phân chia hổ thành 8 giống khác nhau. Đó là Panthera tigrisaltaica (hổ Sibêri, Amua và Đông Bắc Trung Quốc), P. tigris amoyensis (hổ Nam Trung Quốc), P. tigris corbetti (hổ Đông Dương), P. tigris sumatrae (hổ sumatra), P. tigris tigris (hổ Bengal) và 3 giống bị tuyệt chủng là Panthera tigris balica, P. tigris sondaica, P. tigris vigata. 2. Phân bố, sinh thái: Trên thế giới, hổ phân bố ở châu Âu (Liên Xô trước đây) và Châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc, Myanma, Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam), Ở Việt Nam, hổ có mặt ở khắp các tỉnh miền núi trong cả nước. Nhưng do săn bắn nhiều và qua các thời kỳ chiến tranh ở miền Bắc và miền Nam, số lượng hổ đã giảm sút nghiêm trọng, chỉ còn rất ít ở vùng hẻo lánh thuộc biên giới Việt – Lào. Sau đó, người ta lại thấy nó xuất hiện lại ở một số địa phương như Lâm Đồng, Nghệ An, Quảng Trị Hổ sống chủ yếu ở các khu rừng già, có nhiều cỏ tranh, lau lách, cây bụi. Thường sống đơn độc và đi kiếm mồi vào ban đêm. Thức ăn của hổ là hươu nai, hoảng, lợn rừng, bò tót, trâu rừng, đôi khi cả bò, lợn, dê nuôi và những vật rất nhỏ như chim, cá, ếch, bò sát. Mùa sinh sản của hổ không cố định hổ cái và hổ đực ghép đôi trong thời kỳ động dục đến khi có thai. Thời gian có chửa khoảng 3 tháng rưỡi. Mỗi lứa đẻ 2 – 4 con. Hổ con rời mẹ, sống tự lập sau 2 năm tuổi trở lên. Hổ có khả năng trèo cây (thường ít trèo, chỉ khi gặp nguy hiển), bơi lội và nhảy xa. Có thể nói hổ là một con vật khỏe và táo tợn nhất ở rừng núi, được mệnh danh là “chúa sơn lâm”. Từ lâu, hổ đã được thuần dưỡng từ nhỏ để làm xiếc, được nuôi trong vườn thú. 3. Bộ phận dùng: Toàn bộ xương hổ gọi là hổ cốt, được coi là loại tốt với những tiêu chuẩn, quy cách như sau:
Trong đó, quý hơn cả là xương 4 chân và xương đầu (chiếm hơn 60% trọng lượng), đặc biệt hai xương cánh chân trước, mỗi chiếc hơi vặn ở khuỷu, có một lỗ gọi là mắt phượng hay thông thiên và răng hàm có 3 đình nhô lên gọi là “tam sơn” (điểm khác biệt với các loại xương khác). Người ta đã nghiên cứu và quy định một bộ xương hổ phải đạt những yêu cầu sau:
Xương hổ bị trúng thuốc độc có màu đen hoặc xanh lam không được dùng. Cách nấu cao xương hổ (cao hổ cốt): Chọn xương bằng cách kiểm tra kỹ các loại xương chi tiết trong toàn bộ xương hổ cho đủ, đúng quy cách và đúng trọng lượng. Thông thường theo kinh nghiệm dân gian, người ta hay phối hợp xương hổ với xương gấu, khỉ, sơn dương (nhất là sơn dương, với 5 bộ xương sơn dương và 2 bộ xương hổ gọi là “ngũ dương nhị hổ”), hoặc các dược liệu nguồn gốc thực vật. Về vấn đề này, quan niệm có khác nhau. Người thì cho rằng phải có sự hiệp đồng tác dụng giữa các vị chủ lực (quân) và một số vị hỗ trợ (thần). Có người lại nghĩ rằng riêng cao hổ thì mềm, khó bảo quản, mà phải phối hợp để cao có thể chất chắc, cứng, đóng được thành bánh. Đem xương đun sôi với nước trong 30 phút (có nơi còn thêm ít lá đu đủ), khuấy lộn xương cho róc hết thịt và gân còn bám dính. Lấy ra, dùng bàn chải tre hoặc lông thép cọ mạnh cho thật sạch , rồi rửa nhiều lần với nước sạch Xương làm sạch được phơi nắng to hay sấy ở 50 – 60°C cho khô. Lúc này, xương có màu trắng và không còn mùi tanh hôi. Ngày trước, người ta bỏ xương còn dính thịt và gân vào một rọ tre, để chỗ nước suối chảy xiết trong 15 – 20 ngày để rửa trôi hết gân thịt, sau đó, treo rọ lên cành cây cho khô. Làm như vậy để loại bỏ các khí xấu (khu phong), có lẽ để bay hết mùi hôi thối, Cưa xương thành từng đoạn 10 cm, chẻ nhỏ, nạo hết tủy và lớp xương xốp ở trong, rửa sạch rồi ngâm tẩm. Trước đây, người ta dùng nước luộc rau cải hoặc nước lá ngải cứu (có nơi dùng lá trầu không) để ngâm xương trong một ngày, một đêm, rồi rửa lại nhiều lần bằng nước, sau đó, tẩm xương với rượu gừng. Hiện nay, người ta chỉ ngâm rượu gừng với lý lẽ 50 kg xương, 1 kg gừng và 5 lít rượu 40 độ Xếp xương vào thùng nhôm, đổ nước cho ngập vài centimet. rồi nấu như nấu cao dê. Ngoài ra, xương hổ đặc biệt là xương cánh chân trước và xương đầu sao vàng hoặc tẩm dầu vừng (du hổ cốt), tẩm giấm (thố hổ cốt) tán nhỏ thành bột, cũng được dùng Thịt hổ và dạ dày hổ được dùng theo các sách thuốc cổ Việt Nam. Nhiều bộ phận khác như thận, gân, mật hổ… lại có tác dụng chữa bệnh (theo tài liệu nước ngoài). 4. Thành phần hóa học Xương hổ chứa protid và calci dưới dạng phosphat. 5. Tính vị, công năng Xương hổ và cao hổ cốt có vị mặn, cay, hơi tanh. tính ấm, vào hai kinh thận và can, có tác dung bổ dương, trục phong hàn, mạnh gân cốt, giảm đau nhức, trừ thấp. Thịt hổ có vị ngọt, hơi chua, tính bình, không độc, có tác dụng trừ tà, ích khí, chống sốt rét ngã nước, manh tinh thần. 6. Công dụng Xương hổ, nhất là cao hổ cốt, là vị thuốc cổ điển trong y học cổ truyền, có giá trị cao, chữa bệnh đau nhức gân Xương, tê thấp, cơ thể suy yếu, đi lại khó khăn, chân tay co quắp, thoái hóa cột sống. Liều dùng hàng ngày. 10 – 20 g xương chưa chế biến dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu uống, 4 – 8 g cao hổ cốt uống với гượu Mặc dầu trong cao hổ cốt đã có một số dược liệu nguồn gốc thực vật, nhưng khi ngâm rượu cao hổ cốt. vẫn có thể thêm các vị cùng tác dụng như thiên niên kiện, cốt toái bổ, đỗ trọng Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng xương hổ trong những trường hợp sau:
Tuệ Tĩnh còn dùng thịt hổ chữa sốt rét, nôn ọe. Mắt hổ sấy khô, tán nhỏ, hòa với nước cho đặc cho trẻ uống chữa co giật, mất trợn, chân tay co quắp. Hải Thượng Lãn Ông lại dùng dạ dày hổ chữa được chứng phiên vị; răng hổ chữa chó dại cắn Kiêng kỵ: Những người huyết hư, hỏa vương, không được dùng các sản phẩm từ hổ mụn nhọt và chứng mỏi mệt: sỏi thận hổ chữa suy nhược cơ thể lâu ngày, đuôi hổ chữa các bệnh về da: máu hổ tăng cường tinh thần và thể lực, răng hổ chữa bệnh cuồng điên, hen suyễn, mũi hổ chữa chứng động kinh và co giật ở trẻ em, lông hổ đốt khói xua đuổi rắn, rết, râu mép hổ chữa đau răng; dạ dày hổ chữa đau dạ dày – tá tràng. Ghi chú: Do có giá trị cao về mặt y học, nên cao hổ cốt thường bị giả mạo bằng cao nấu từ các loại xương động vật khác. Hiện nay, rất khó có được cao hổ cốt chính hiệu với cách chế biến công phu như sách cổ đã ghi. Trong dân gian, người ta đã thử một số cách để phân biệt cao thật và cao giả, như nếu là cao hổ thật thì ngọn cỏ non cắm trên mặt cao phải héo úa, chó gửi cao phải bỏ chạy và người uống cao thấy có một luồng nóng chạy khắp cơ thể. Hoặc cho chó tiếp xúc với bộ xương hổ, chó sẽ rên hư hử và rúm ró toàn thân ( Đó là những điều khó có thể tin ). Hổ đã được đưa vào sách đỏ của nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại Hội nghị quốc tế diễn ra ở Washington ( Mỹ) tháng 12 năm 1997. Tổ chức bảo vệ động vật hoang dã (WWF) đã thông báo số lượng hổ trên thế giới giảm từ 100.000 con xuống còn khoảng 5000 – 7000 con. Riêng hổ Bengal, từ 40.000 con ( năm 1900) giảm còn 3.000 con ( năm 1999). Những nước có hổ đều đã có pháp lệnh cấm săn bắn ( Liên Xô trước đây, Trung Quốc, Hàn Quốc, Iran) và cấm xuất khẩu da hổ ( Ấn Độ, Pakistan, Nepal). Bệnh viện Nguyễn Tri Phương - Đa khoa Hạng I Thành phố Hồ Chí Minh
|