10 quốc gia sản xuất carbon hàng đầu năm 2022

Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Tại Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu COP26 mới đây, 137 quốc gia đã cam kết trung hóa carbon, và hầu hết các cam kết đều tập trung vào khoảng năm 2050.

Bhutan và Suriname là hai quốc gia duy nhất đã đạt được mức độ trung hòa carbon. Trong khi đó, mục tiêu năm 2030 của Uruguay là mốc thời gian sớm nhất được đề ra, tiếp theo là Phần Lan, Áo, Iceland, Đức và Thụy Điển khi các nước này đều đang nhắm đến mục tiêu năm 2045 hoặc sớm hơn.

Hơn 90% trong số 137 quốc gia này đặt mục tiêu đạt được mức độ trung hòa carbon vào năm 2050.

Hiện chỉ có 5 quốc gia có cam kết trung hòa carbon ròng được đặt ra sau năm 2050, bao gồm Úc, Singapore, Ukraine, Kazakhstan, nước phát thải lớn nhất thế giới - Trung Quốc. Cam kết gần đây của quốc gia này là rất quan trọng, vì Trung Quốc chiếm khoảng 25% lượng khí thải toàn cầu.

Tuy nhiên, đặt mục tiêu có lẽ là bước đơn giản nhất để hướng tới tính trung hòa carbon. Nhưng thách thức thực sự là củng cố mục tiêu đó và bắt đầu đạt được những tiến bộ nhất định.

Mục tiêu năm 2030 của Uruguay có thể là mục tiêu sớm nhất, nhưng quốc gia này vẫn còn một chặng đường dài nữa trước khi hiện thực hóa được nó. Trong khi đó, chỉ có sáu quốc gia đã thông qua các mục tiêu trung hòa carbon của họ thành luật, bao gồm Thụy Điển, Đan Mạch, Pháp, Hungary, New Zealand và Anh.

Ngoài ra, các khu vực khác cũng đang đề xuất luật trong các hoạt động chuyển đổi xanh, bao gồm Canada và Hàn Quốc, và EU.

Đáng chú ý, 24 quốc gia đã đặt các mục tiêu khí hậu thành chính sách chính thức, trong đó bao gồm Brazil, Trung Quốc, Đức, Mỹ và một số quốc gia phát thải lớn khác.

Hiện, 99 trong số 137 nước cam kết chỉ đang thảo luận và đề xuất kế hoạch cụ thể, chiếm hơn 72%. Nhưng khi thời gian bắt đầu trôi qua, áp lực buộc các quốc gia phải thực hiện các cam kết trung hòa carbon sẽ dần tăng lên.

Quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo

10 quốc gia sản xuất carbon hàng đầu năm 2022
Chỉ số chuyển đổi năng lượng mới nhất (ETI) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.

 

Thụy Điển, Na Uy và Đan Mạch hiện đứng đầu trong Chỉ số chuyển đổi năng lượng mới nhất (ETI) của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.

ETI xếp hạng 115 quốc gia về hiệu suất năng lượng của họ, bao gồm khả năng phục hồi và hiệu quả của việc sản xuất và truyền tải, cũng như tiến tới các dạng năng lượng sạch hơn.

Thụy Điển dẫn đầu bảng xếp hạng toàn cầu, tiếp theo là Na Uy và Đan Mạch. 10 quốc gia hàng đầu chiếm khoảng 2% dân số toàn cầu và khoảng 3% lượng khí phát thải.

Trong khi top 10 chỉ bao gồm các quốc gia phát triển, Anh và Pháp là những nền kinh tế lớn duy nhất góp mặt.

Hiện nay, nhiên liệu hóa thạch vẫn là nguồn năng lượng chủ đạo trên toàn cầu, chiếm hơn 80% tổng lượng điện năng. Giảm sự phụ thuộc vào than, dầu và khí đốt là một phần cần thiết để đạt được các mục tiêu khí hậu quan trọng như Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và Thỏa thuận Paris.

Trong 10 năm qua của ETI, hơn 70% quốc gia được theo dõi đã đạt được tiến bộ về tiếp cận năng lượng mới, nhưng chỉ 13 trong số 115 quốc gia đạt được mức tăng trưởng ổn định.

Trong một bài phân tích mới nhất vào tháng 11 của WorldBank, tổ chức này cho biết quá trình chuyển đổi năng lượng ở Nam Á sẽ rất quan trọng để toàn cầu đạt được mục tiêu trung hòa carbon.

Chuyển đổi năng lượng cũng sẽ rất quan trọng để giảm nghèo và tạo việc làm. Trên toàn cầu, việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái tạo đã đạt 12 triệu vào năm 2020, đồng thời, sự chuyển dịch sang nền kinh tế carbon thấp, có khả tạo ra hơn 50 triệu việc làm mới vào năm 2030 chỉ riêng ở Bangladesh và Ấn Độ.

Ở Nam Á, sản xuất năng lượng vẫn chủ yếu dựa vào nhiên liệu hóa thạch. Khí nhà kính được tạo ra từ quá trình sản xuất năng lượng chiếm 63% lượng khí thải trong khu vực. Việc chuyển đổi sang năng lượng carbon thấp ở Nam Á là một ưu tiên và rất quan trọng để hạn chế phát thải trong khu vực.

Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi này sẽ cần diễn ra khi nhu cầu năng lượng ở Nam Á tăng cao - nhu cầu đã tăng 50% kể từ năm 2000. Nhu cầu điện của khu vực này dự kiến sẽ tăng gấp đôi trong thập kỷ này.

Nam Á đã đạt được những tiến bộ gần đây trong việc cung cấp điện cho những nhóm dân cư khó tiếp cận nhất của mình, trong đó Bangladesh, Ấn Độ và Nepal đã thúc đẩy quá trình điện khí hóa. Tuy nhiên, việc mở rộng độ tin cậy và sự sẵn có của nguồn điện sạch, giá cả phải chăng vẫn là yếu tố quan trọng để củng cố lợi ích phát triển từ việc cải thiện khả năng tiếp cận.

Theo WorldBank, tin tốt đối với khu vực này chính là việc chi phí năng lượng tái tạo đã giảm trong thập kỷ qua do giá điện từ năng lượng mặt trời và gió trên đất liền lần lượt giảm 89% và 70%. Những công nghệ mới cung cấp các lựa chọn thay thế rẻ hơn cho nhiên liệu hóa thạch. Các quốc gia như Ấn Độ đã tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong quy hoạch năng lượng của họ, với năng lượng gió và năng lượng mặt trời hiện chiếm 7% tổng sản lượng điện, gấp đôi tỷ trọng của họ vào năm 2014. Tuy nhiên, một tương lai "không phát thải ròng" sẽ đòi hỏi một loạt các công nghệ cung cấp năng lượng sạch an toàn và hợp lý.

Theo đề xuất của WorldBank, thứ nhất, các quốc gia có thể tập trung vào quá trình chuyển đổi năng lượng cốt lõi, nghĩa là xây dựng các giải pháp thay thế cho nhiên liệu hóa thạch. Điều này bao gồm hỗ trợ mở rộng các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió trên đất liền và thủy điện.

Nó cũng liên quan đến việc đẩy nhanh việc triển khai các công nghệ mới hơn như gió ngoài khơi và hệ thống lưu trữ pin cho phép lưu trữ năng lượng từ năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời và gió.

Hơn nữa, phù hợp với mục tiêu đã nêu của COP26 về thích ứng với khí hậu, các quốc gia có thể nâng cấp mạng lưới lưới điện của mình để hỗ trợ tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo. Các quốc gia cũng có thể tăng cường phát triển thị trường năng lượng sôi động trong khu vực, bao gồm hỗ trợ phát triển các hành lang xanh để làm cho năng lượng dễ tiếp cận hơn với tất cả mọi người.

Thứ hai, các quốc gia có thể ưu tiên khử cacbon trong lĩnh vực công nghiệp và giao thông bằng cách thúc đẩy sử dụng hiệu quả năng lượng, nguyên liệu thô và giảm sự phụ thuộc vào than trong các ngành công nghiệp như sắt và thép. Trong giao thông vận tải, các quốc gia có thể mở rộng quy mô các giải pháp di chuyển bằng điện và triển khai các nhiên liệu thay thế như hydro xanh.

Thứ ba, chuyển đổi năng lượng là một quá trình chuyển đổi công bằng, nơi không ai bị bỏ lại phía sau. Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi năng lượng ở Nam Á sẽ đòi hỏi các nhà máy nhiệt điện than phải ngừng hoạt động, điều này sẽ tác động đến các ngành công nghiệp và việc làm.

Phù hợp với mục tiêu thứ hai của COP26 là thích ứng để bảo vệ cộng đồng, các chính phủ cần cung cấp mạng lưới an toàn cho những sinh kế bị mất và ưu tiên hỗ trợ cho các ngành công nghiệp thay thế để tạo ra việc làm mới.

Cuối cùng, đẩy nhanh đầu tư của khu vực tư nhân trong quá trình chuyển đổi năng lượng. Các mục tiêu năng lượng carbon thấp của Nam Á sẽ cần sự gia tăng đáng kể đầu tư vào lĩnh vực năng lượng.

Hiện Nhóm Ngân hàng Thế giới cũng cam kết huy động các nguồn lực cần thiết để hỗ trợ các mục tiêu năng lượng bền vững của các quốc gia.

Tại Pakistan, WorldBank đã huy động thành công hơn 1,2 tỷ USD tài trợ thương mại cho thủy điện. Kinh nghiệm của tổ chức cho thấy rằng chuyển đổi năng lượng đòi hỏi đầu tư liên tục vào các cải tiến năng lượng mới để đạt được những đột phá.

Hành động từ các quốc gia phát thải lớn nhất

Trung Quốc đã đạt được những tiến bộ đáng chú ý trong quá trình chuyển đổi năng lượng sạch, nhưng nước này vẫn phải đối mặt với thách thức đáng kể. Than chiếm hơn 60% sản lượng điện và Trung Quốc tiếp tục xây dựng các nhà máy điện than mới trong nước. Dù vậy, Bắc Kinh đã bổ sung đáng kể công suất điện mặt trời. Đây là nước tiêu thụ dầu lớn thứ hai trên thế giới, nhưng cũng là nơi đóng góp 70% công suất sản xuất pin xe điện trên toàn cầu.

Trung Quốc đã phải hành động nhanh chóng trong những năm gần đây để thúc đẩy quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế sạch hơn.

Trung Quốc là nhà đầu tư lớn nhất vào năng lượng tái tạo trong thập kỷ qua, chi gần 760 tỷ USD từ năm 2010 đến năm 2019, gấp đôi mức 356 tỷ USD của Mỹ. Toàn bộ châu Âu đứng ở vị trí thứ hai, với 698 tỷ USD.

Theo đó, Trung Quốc không chỉ dẫn đầu thế giới về tổng năng lượng gió và năng lượng mặt trời được lắp đặt - với tổng công suất năng lượng gió là 288 gigawatt và 253 gigawatt công suất năng lượng mặt trời vào cuối năm 2020, nước này còn tự định vị mình là nhà cung cấp chính của nền kinh tế sạch.

Theo tổ chức truyền thông Foreign Policy, 30% nhà sản xuất tuabin gió trên thế giới là ở Trung Quốc và hơn 70% quang điện mặt trời trên thế giới được sản xuất bởi nước này. Hơn nữa, Trung Quốc kiểm soát gần như toàn bộ chuỗi cung ứng trước khi tiến tới bước lắp ráp cuối cùng cho xe điện.

Động thái kiểm soát phần lớn chuỗi cung ứng năng lượng sạch chỉ là một phần trong cách tiếp cận của Trung Quốc đối với quá trình chuyển đổi này. Các yếu tố khác, bao gồm cách tiếp cận kinh doanh để thử nghiệm các sáng kiến ​​kinh tế, cấu trúc chính phủ tạo điều kiện cho hành động nhanh chóng cũng như tuyên truyền cho người dân, đang thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh tại nước này.

Trong khi đó, chỉ trong 10 năm, thị phần năng lượng tái tạo trong sản xuất điện của Mỹ đã tăng gấp đôi từ 10% vào năm 2010 lên 20% vào năm 2020, theo báo cáo của Deloitte.

Phần lớn sự tăng trưởng đó là nhờ năng lượng mặt trời và năng lượng gió, với tốc độ tăng trưởng kép hàng năm lần lượt là 84% và 15% trong thập kỷ qua. 

Bất chấp mức tăng ấn tượng này, Mỹ sẽ phải tăng tốc đáng kể để đạt được các mục tiêu năng lượng sạch. Vào cuối năm 2020, Mỹ có hơn 100 gigawatt (GW) năng lượng mặt trời và 122,5 GW công suất điện gió, nhưng nước này sẽ cần bổ sung thêm 70–100 GW cho năng lượng mặt trời và gió mỗi năm để trung hòa carbon từ năm 2035 đến năm 2050.

Hiện tại, Mỹ đang đề ra các chính sách năng lượng sạch lâu dài nhằm tạo ra một thị trường bền vững cho năng lượng tái tạo, khuyến khích và hỗ trợ việc tích hợp năng lượng tái tạo, tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lĩnh vực này. Đồng thời, Mỹ cũng đưa ra nhiều biện pháp kịp thời như nỗ lực cải thiện lưới điện bằng cách tăng cường hạ tầng cơ sở truyền dẫn để tích hợp được một lượng lớn năng lượng tái tạo, kết hợp với kế hoạch hóa phát triển lưới điện tiên tiến hơn để duy trì tính tin cậy và bền vững của loại năng lượng này.

Trong đó, năng lượng mặt trời được chú trọng bởi đó là thành phần chủ yếu trong hệ thống năng lượng tái tạo của Mỹ. Trong những năm qua, chi phí cho hệ thống sản xuất điện mặt trời đã giảm đáng kể, góp phần mang lại cho các gia đình và doanh nghiệp Mỹ cơ hội tiếp cận với năng lượng sạch và giá thành phải chăng.

Thông qua hạng mục đầu tư cho nghiên cứu và phát triển (R&D), Bộ Năng lượng Mỹ vẫn tiếp tục thúc đẩy phát triển và mở rộng thị trường năng lượng mặt trời trên cơ sở hài hòa, bền vững, phát triển sản xuất điện đi đôi với cơ sở hạ tầng kèm theo, như mạng lưới truyền tải hay tích trữ điện.

Bộ Năng lượng Mỹ sẽ tiếp tục định hướng chiến lược đầu tư nhằm chuyển đổi sang sản xuất năng lượng an toàn và sạch hơn. Đến nay, việc sản xuất các nguồn năng lượng tái tạo không ngừng gia tăng, các thống đốc bang tại Mỹ đang thúc đẩy phát triển công nghệ năng lượng sạch.

Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nga và Nhật Bản là 5 quốc gia phát ra carbon hàng đầu. Nếu bạn tò mò về các loại khí thải nhà kính và tại sao đây là những quốc gia phát ra carbon hàng đầu, thì đây là dành cho bạn. Chúng tôi sẽ chỉ cho bạn các số liệu thống kê và tác hại được thực hiện từ lượng khí thải carbon dioxide và tất cả khí thải nhà kính.

Các loại bộ phát carbon

Các bộ phát carbon khác nhau theo ngành kinh tế khác nhau rất nhiều trong khu vực vì nguồn lực và nhu cầu của mỗi quốc gia. Trên toàn cầu, CO2 chiếm 76% lượng khí thải GHG. Theo ngành kinh tế, tỷ lệ phần trăm của GHG phát ra trên toàn cầu là:

10 quốc gia sản xuất carbon hàng đầu năm 2022

Tác hại và hậu quả

Sự nóng lên toàn cầu đã ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu đến mức toàn bộ hệ sinh thái đang chết dần, có lũ lụt lớn ở những nơi không chuẩn bị và chúng tôi đang gặp phải tình trạng khẩn cấp về khí hậu một cách ngẫu nhiên. Chất lượng không khí của một số khu vực nhất định tệ đến mức gây nhiễm trùng đường hô hấp trong các quần thể rộng rãi. Khi có sự mất cân bằng trong các yếu tố trong khí quyển và điều đó phản ánh thành đại dương, rừng, v.v., nó phá vỡ toàn bộ hành tinh.

Nội dung liên quan

Nếu bạn muốn biết thêm về cách ngăn chặn biến đổi khí hậu trong tổ chức của bạn, vui lòng xem nội dung sau từ học viện miễn phí của chúng tôi:

• Bài báo: lượng khí thải carbon trong khí quyển và các phương pháp giảm phát thải • Bài viết: Phát thải khí nhà kính ở Hoa Kỳ Carbon Emissions in the Atmosphere and the Methods of Abating Emissions
• Article: Greenhouse Gas Emissions in the United States

Các quốc gia hàng đầu phát ra carbon dioxide

Năm quốc gia hàng đầu phát ra carbon dioxide là Trung Quốc, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật Bản và Nga.

10 quốc gia sản xuất carbon hàng đầu năm 2022

Trong năm 2018, năm phát ra hàng đầu trên đầu người là Ả Rập Saudi, Kazakhstan, Úc, Hoa Kỳ và Canada.

Trung Quốc

Trung Quốc ở mức 10,175 tỷ tấn trong năm 2019 vì 58% năng lượng của họ đến từ việc đốt than. Giữa các nhà máy công nghiệp và điện của họ đốt than giàu carbon và nhập khẩu dầu của họ cho các phương tiện cơ giới gây ô nhiễm bầu không khí, cho đến nay, chúng là người phát ra tồi tệ nhất và vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm. Họ tăng gấp đôi số lượng của Hoa Kỳ, bộ phát tồi tệ thứ hai. Họ là người cuối cùng phù hợp với Net Zero, chỉ đồng ý lên kế hoạch cho tính trung lập carbon trong năm 2060 và các chiến lược của họ để đạt được điều đó không minh bạch cũng không thuyết phục. Mặc dù họ có mục tiêu lên đến đỉnh điểm vào năm 2030 và một tài liệu 140 trang giải thích cách họ sẽ vượt qua nó, nhưng các chi tiết vẫn không minh bạch và số liệu thống kê dường như không thể đạt được.

Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, các nhiệm vụ của họ chủ yếu đến từ giao thông, ngành công nghiệp và quyền lực. Họ đã phát ra 5,285 tỷ tấn CO2 vào năm 2019. Khu vực hóa học cũng sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu thô là một bộ phát lớn. Họ cũng là những nhà sản xuất lớn dầu thô. Vì họ chủ yếu dựa vào phương tiện giao thông cá nhân, lãng phí khí đốt và dầu, thay vì giao thông công cộng, và họ rất lớn trong việc nhập khẩu cho người tiêu dùng và các vật liệu sản xuất khác bên ngoài đất nước, đặc biệt là phụ thuộc vào Trung Quốc, Hoa Kỳ là người phát điện cao thứ hai. Tin tốt là họ đã giảm phát thải và có chiến lược, nhận thức và sẵn sàng thực hiện các chiến lược.

Theo Trình theo dõi hành động khí hậu, Hoa Kỳ không đủ để đạt được các mục tiêu của họ để chống lại vấn đề:

10 quốc gia sản xuất carbon hàng đầu năm 2022

Nguồn hình ảnh: Trình theo dõi hành động khí hậu

Ấn Độ

Ấn Độ là bộ phát carbon dioxide lớn thứ ba với tốc độ 2,616 tỷ tấn trong năm 2019, đã tăng gấp đôi kể từ năm 2009 do công nghiệp hóa và tiêu thụ nhiên liệu và than rắn của họ. Than được sử dụng cho điện tăng từ 68% vào năm 1992 lên 75% vào năm 2015 vì nó rẻ hơn so với nhập khẩu khí đốt.

Mặc dù Ấn Độ đã cam kết không có thỏa thuận và không chiến lược trong tương lai không có ròng, họ tiếp tục chỉ trích thế giới đầu tiên vì những người phát ra bình quân đầu người của họ. Đây là một vấn đề cá nhân và tập thể và không có chiến lược tại chỗ, chỉ trích những người phát ra khác sẽ không đạt được tính trung lập carbon, đặc biệt là khi đất nước của họ tăng lên với tốc độ cao nhất bởi một vụ lở đất so với bất kỳ quốc gia nào khác.

Nga

Nga là bộ phát GHG lớn thứ 4 với lượng khí thải carbon dioxide 1,678 tỷ tấn trong năm 2019. Chúng có nguồn cung khí tự nhiên lớn nhất được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực điện nhưng vẫn sử dụng than cho các ngành công nghiệp vật liệu. Cả hai EMIT CO2 mặc dù khí tự nhiên phát ra ít hơn.

Họ đã không đặt mục tiêu bằng không ròng mặc dù nhiều quốc gia đang thúc giục họ tham gia cuộc đua đến Net Zero. Reuters báo cáo, "Các đại sứ kêu gọi Nga" nắm bắt cơ hội này "để phát triển năng lượng tái tạo, công nghệ xanh và bảo vệ các khu rừng tiêu tốn carbon, để giúp thúc đẩy nền kinh tế của nó và tạo ra việc làm trong các lĩnh vực carbon thấp. Nga là nhà sản xuất dầu lớn và Gas, nhiên liệu hóa thạch mà khi đốt cháy sản xuất khí thải nhà kính thúc đẩy biến đổi khí hậu. "

Nhật Bản

Nhật Bản đã phát ra 1,107 tỷ tấn carbon dioxide trong năm 2019 giảm so với năm trước. Chúng là bộ phát cao thứ năm, sử dụng than và khí đốt tự nhiên cho điện cho các cá nhân và ngành công nghiệp. Sau thảm họa Fukushima năm 2011, họ đã tăng cường đốt nhiên liệu hóa thạch. Họ có kế hoạch mở lại các lò phản ứng năng lượng hạt nhân để tạo ra sức mạnh một lần nữa thay vì nhập khẩu nó, điều này sẽ làm giảm sự phụ thuộc của chúng vào nhiên liệu hóa thạch trong tương lai. Tuy nhiên, sau vụ tai nạn hạt nhân cuối cùng đã khiến hệ sinh thái gặp nguy hiểm trong nhiều thế kỷ, năng lượng tái tạo từ các dự án gió ngoài khơi và năng lượng mặt trời sẽ tốt hơn năng lượng hạt nhân gây ra các vấn đề có thể khiến chúng phải trả giá cao hơn về mặt môi trường và kinh tế so với lượng khí thải carbon .

Mặc dù Nhật Bản có tiềm năng lớn để phát triển năng lượng tái tạo và có mong muốn đạt được ròng 0 vào năm 2050, việc chuyển các nhà đầu tư sang năng lượng tái tạo cục bộ như các trang trại gió ngoài khơi sẽ là một sự thay đổi tích cực trong hỗn hợp năng lượng của họ. Họ có kế hoạch sử dụng 24% năng lượng tái tạo trong tương lai nhưng với rất ít năng lượng gió (1,7%) mặc dù là một quần đảo thuận lợi cho các dự án ngoài khơi.

Nhật Bản đã đề xuất hỗn hợp sức mạnh sau đây vào năm 2030:

10 quốc gia sản xuất carbon hàng đầu năm 2022

Nguồn hình ảnh: Biểu đồ tóm tắt carbon từ INDC của Nhật Bản

Chúng ta có thể làm gì?

Chúng ta có thể làm hết sức mình bằng cách giảm phát thải GHG và tính toán những gì chúng ta không thể tránh được vào lúc này để những phát thải đó có thể được bù đắp. Nền tảng quản lý khí thải Net0 giúp các công ty theo dõi chính xác lượng khí thải carbon của họ và cung cấp những hiểu biết trực quan cho việc giảm trong tương lai. Các công ty có thể cho phép truy cập vào các nhà cung cấp và đồng nghiệp để dữ liệu có thể được nhập thông qua các bảng điều khiển cá nhân khác nhau, chịu trách nhiệm cho mọi người. Vì thật dễ dàng để bù đắp với các dự án được chứng nhận trong nền tảng, không cần phải tìm kiếm các cơ quan đắt tiền hoặc kế toán carbon bên ngoài.

Công ty của bạn càng trở nên trung tính carbon càng nhanh, đất nước của bạn cũng sẽ đạt được tính trung lập carbon càng dễ dàng. Đặt cuộc gọi với chúng tôi ngay hôm nay và kiểm tra nền tảng để đi trước và để ngăn chặn sự nóng lên toàn cầu hơn nữa.

Nước nào tạo ra nhiều carbon nhất?

Trung Quốc.Trung Quốc là chất phát lớn nhất của khí carbon dioxide trên thế giới, với 10.668 triệu tấn được phát ra vào năm 2020. ....
Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là bộ phát CO2 lớn thứ hai, với 4.713 triệu tấn khí thải carbon dioxide vào năm 2020. ....
Ấn Độ.....
Nga.....
Japan..

Quốc gia nào sẽ phát ra nhiều carbon nhất vào năm 2022?

Dấu chân carbon theo quốc gia 2022.

Nhà sản xuất CO2 lớn nhất là gì?

Giao thông vận tải (27% của 2020 Phát thải khí nhà kính) - lĩnh vực giao thông tạo ra tỷ lệ phát thải khí nhà kính lớn nhất.Phát thải khí nhà kính từ vận chuyển chủ yếu đến từ việc đốt nhiên liệu hóa thạch cho xe hơi, xe tải, tàu, xe lửa và máy bay của chúng tôi.The transportation sector generates the largest share of greenhouse gas emissions. Greenhouse gas emissions from transportation primarily come from burning fossil fuel for our cars, trucks, ships, trains, and planes.