5 tôn giáo hàng đầu trên thế giới hiện nay năm 2022
Show
Tôn giáo có thể được định nghĩa là một hệ thống các văn hoá, tín ngưỡng, đức tin bao gồm các hành vi và hành động được chỉ định cụ thể, các quan niệm về thế giới, thể hiện thông qua các kinh sách, khải thị, các địa điểm linh thiêng, lời tiên tri, quan niệm đạo đức, hoặc tổ chức, liên quan đến nhân loại với các yếu tố siêu nhiên, siêu việt hoặc tâm linh. Tuy nhiên, hiện tại chưa có sự đồng thuận học thuật về những gì chính xác cấu thành một tôn giáo.[1] Các tôn giáo khác nhau có thể chứa hoặc không chứa nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm các yếu tố thần thánh[2], những điều thiêng liêng[3], tín ngưỡng,[4] một thế lực hoặc nhiều thế lực siêu nhiên[5] hoặc "một số thế lực siêu việt tạo ra các chuẩn mực và sức mạnh cho phần còn lại của cuộc đời ".[6] Các hoạt động tôn giáo có thể bao gồm các nghi lễ, bài giảng, lễ kỷ niệm hay biểu hiện sự tôn kính (các vị Thần, Thánh, Phật), tế tự, lễ hội, nhập hồn, lễ nhập đạo, dịch vụ tang lễ, dịch vụ hôn nhân, thiền, cầu nguyện, âm nhạc, nghệ thuật, múa, dịch vụ công cộng, hoặc các khía cạnh khác của văn hóa con người. Các tôn giáo có lịch sử và các kinh sách thiêng liêng, có thể được bảo tồn trong các thánh thư, các biểu tượng và thánh địa, nhằm mục đích chủ yếu là tạo ra ý nghĩa cho cuộc sống. Tôn giáo có thể chứa những câu chuyện tượng trưng, đôi khi được những người tin theo cho là đúng, có mục đích phụ là giải thích nguồn gốc của sự sống, vũ trụ và những thứ khác. Theo truyền thống, đức tin, cùng với lý trí, đã được coi là một nguồn gốc của các niềm tin tôn giáo.[7] Có khoảng 10.000 tôn giáo khác nhau trên toàn thế giới,[8] nhưng khoảng 84% dân số thế giới theo một trong năm nhóm tôn giáo lớn nhất, đó là Kitô giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo và các dạng tôn giáo dân gian. Các nhân khẩu học không tôn giáo bao gồm những người không liên kết với bất kỳ tôn giáo cụ thể nào, những người Vô thần hoặc Bất khả tri. Trong khi số lượng những người không có tôn giáo cụ thể càng ngày càng tăng trên toàn cầu, nhiều người trong số những người không theo tôn giáo cụ thể nào vẫn có nhiều niềm tin tôn giáo khác nhau.[9] Nghiên cứu về tôn giáo bao gồm nhiều ngành học, bao gồm Thần học, tôn giáo so sánh và nghiên cứu khoa học xã hội. Các lý thuyết về tôn giáo đưa ra các giải thích khác nhau về nguồn gốc và hoạt động của tôn giáo, bao gồm các nền tảng bản thể học của các thực thể tôn giáo và niềm tin.[10] Từ nguyên[sửa | sửa mã nguồn]Trong tiếng Anh, tôn giáo là: Religion - xuất phát từ tiếng Latinh: Religio mang nghĩa "tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh" hay "bổn phận, sự gắn kết giữa con người với thần linh") - xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người), đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: Thiêng liêng và Trần tục.[11] Trần tục là những gì bình thường trong cuộc sống con người, còn Thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự Thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa tôn giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân loại và vũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì thế những tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học. Số tôn giáo được hình thành từ xưa đến nay được xem là vô số, có nhiều hình thức trong những nền văn hóa và quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo lớn được nhiều người theo hơn những tôn giáo khác. Đôi khi từ "tôn giáo" cũng có thể được dùng để chỉ đến những cái gọi đúng hơn là "tổ chức tôn giáo" – một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ phụng, thường có tư cách pháp nhân. "Tôn giáo" hay được nhận thức là "tôn giáo" có thể không đồng nhất với những định nghĩa trên đây trong niềm tin tối hậu nơi mỗi tôn giáo (tức là khi một tín hữu theo một tôn giáo nào đó, họ không có cái gọi là ý niệm "tôn giáo" nơi tôn giáo của họ, tôn giáo chỉ là một cách suy niệm của những người không có tôn giáo bao phủ lấy thực tại nơi những người có tôn giáo). Các khái niệm[sửa | sửa mã nguồn]
Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin và sự sùng bái thần thánh hay các quyền lực vô biên, siêu nhiên, vào cuộc sống sau khi chết..., tóm lại, là những phát biểu mà vì đó các thành viên của một tôn giáo nào đó gắn bó vào đó.[12] Tín ngưỡng thường phát sinh khi một lãnh tụ tinh thần khẳng định một số hiểu biết đặc biệt về chân lý thần thánh và tổ chức tín đồ của mình. Cũng có quan điểm cho rằng, tín ngưỡng tôn giáo là hoạt động tôn giáo ít hay không có điểm chung với các tổ chức tôn giáo khác trong một xã hội cụ thể.[13] Theo quan điểm này thì tín ngưỡng là một cái gì đó hoàn toàn mới, nó có thể là kết quả của sự truyền bá quan điểm tôn giáo từ một xã hội này sang một xã hội khác, nơi mà nó chưa từng có tiền lệ. Do vậy khi mới hình thành, tín ngưỡng thường chưa được chính thức hóa và hay có mâu thuẫn với xã hội, nếu tiếp tục phát triển, tín ngưỡng sẽ trở nên có tổ chức, nghi lễ chặt chẽ hơn và có thể trở thành tôn giáo. Tuy nhiên tín ngưỡng tôn giáo không phải là các giáo phái, giáo phái là những nhóm ly khai với giáo hội hay tổ chức tôn giáo truyền thống của nó còn tín ngưỡng thì hoàn toàn mới. Tôn giáo là những hệ thống tín ngưỡng thường tìm câu trả lời cho những khái niệm sau:
Thông thường, những tôn giáo khác nhau và những phe không tôn giáo đều có câu trả lời khác nhau về các khái niệm trên, và nhiều tôn giáo có nhiều trả lời cho mỗi khái niệm. Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:
Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với người chết thì ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo.[14] Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây cối...cũng có thể được coi là những thế lực có tính chất thần thánh sinh ra và chi phối đời sống con người. Xã hội săn bắn, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư (shaman) có thể được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải chiếm toàn bộ thời gian của người đó. Sang đến giai đoạn xã hội trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh đồng thời tôn giáo vượt qua khỏi phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem là vua và tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập. Trước Cách mạng Công nghiệp, tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các tôn giáo có nhiều xung đột với nhau: Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập tự chinh; Ấn Độ giáo xung đột với Phật giáo và về cơ bản đã loại trừ tôn giáo này ra khỏi miền đất phát tích của nó vào thế kỷ 13; người Hồi giáo chinh phục và truyền bá tôn giáo của mình đến những vùng khác... Từ khi Cách mạng Công nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã khiến cho ảnh hưởng của tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước, tôn giáo dần bị tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần thay thế cho tôn giáo, chẳng hạn một người khi gặp bệnh tật tìm đến bác sĩ nhiều hơn là tu sỹ. Tuy vậy, thậm chí ngay cả cho đến nay, nhiều phong trào tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát triển. Hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]Một số hoạt động tôn giáo trên thế giới. Những phong tục dựa vào tín ngưỡng tôn giáo thường gồm có:
Những tín đồ của một tôn giáo thường họp mặt để làm lễ, đọc hay tụng kinh, cầu nguyện, thờ phụng, và giúp đỡ tinh thần lẫn nhau. Tuy nhiên, cầu nguyện và ngồi thiền một mình cũng thường được xem là quan trọng, cũng như sống theo tín ngưỡng ngoài đời hay với những người không theo đạo đó. Đây thường là một chức năng của tôn giáo đó. Các tôn giáo chính[sửa | sửa mã nguồn]Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tôn giáo trên thế giới ngày nay, có tôn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý không lớn nhưng có những tôn giáo có thể gọi là tôn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới. Nói chung có khoảng 87 phần trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có khoảng 13 phần trăm là không tôn giáo.[15] Các tôn giáo trên thế giới
Việc thống kê số liệu tín đồ của từng tôn giáo rất phức tạp và nhiều phương pháp khác nhau do đó các nguồn số liệu có thể cho kết quả khác nhau đáng kể, tuy vậy nó cung cấp cái nhìn tương đối về quy mô của các tôn giáo đặc biệt là trong tương quan với nhau. Bản đồ phân bố các tôn giáo quan trọng trên thế giới
Sự khác nhau giữa các tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]Số thần thánh[sửa | sửa mã nguồn]
Giới tính thần thánh[sửa | sửa mã nguồn]
Nguồn kinh sách[sửa | sửa mã nguồn]
Cấu trúc tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]
Giáo lý[sửa | sửa mã nguồn]
Sau khi chết[sửa | sửa mã nguồn]
Tôn giáo và khoa học[sửa | sửa mã nguồn]Quan điểm về tôn giáo và khoa học có thể đi từ thái cực cái nọ phủ nhận cái kia cho đến dung hòa hơn. Ở thái cực này, một số người cho rằng những hiểu biết tôn giáo có thể trả lời mọi câu hỏi liên quan đến vũ trụ và đời sống con người. Ở thái cực khác một số người lại cho rằng những hiểu biết tôn giáo là mê tín, phi lý, hoang đường, chỉ có khoa học mới đưa ra được câu trả lời đúng đắn. Ở giữa hai thái cực, có quan điểm coi tôn giáo và khoa học dùng các phương pháp, hay nói đúng hơn, trả lời cho các câu hỏi khác nhau để tìm đến Chân lý và kiến thức đồng thời bổ sung cho nhau. Tôn giáo dùng những phương pháp dựa theo sự hiểu biết chủ quan của trực giác cá nhân và kinh nghiệm và/hoặc căn cứ vào chức trách của các kinh sách hay người được xem là tiên tri. Khoa học, trái lại, dùng phương pháp khoa học, một quá trình khách quan để điều tra nghiên cứu dựa theo chứng cớ vật chất, dùng các hiện tượng có thể quan sát và xác minh được. Tương tự, có hai loại câu hỏi mà tôn giáo và khoa học cố gắng trả lời: những câu hỏi về các hiện tượng có thể quan sát và xác minh được (như các luật vật lý, hay cách hành xử của con người) và những câu hỏi về các hiện tượng không thể quan sát được và việc đánh giá về giá trị, ý nghĩa, mục đích (như làm sao có các luật vật lý, thế nào là "thiện" và "ác"). Quan điểm này có thể được minh họa bằng những lời Hồng y Barberini[22] đã từng nói với Galileo: "Anh dạy cho mọi người biết bầu trời di chuyển như thế nào; còn chúng tôi dạy cho mọi người biết cách lên trời".[23] Nói cách khác, "thế giới này hoạt động ra sao là vấn đề khoa học, nhưng tại sao chúng ta và phần vũ trụ còn lại nói chung lại tồn tại là vấn đề khoa học không sao giải thích được."[24] Cặp từ "tôn giáo và khoa học" lần đầu xuất hiện vào thế kỷ 19. Mối quan hệ này được miêu tả khác nhau như 'xung đột', 'hòa hợp', 'phức tạp', 'độc lập khỏi nhau'. Từ phương Tây, các triết gia thời Khai sáng phổ biến luận thuyết xung đột về mối quan hệ giữa khoa học và tôn giáo. Tuy nhiên, ngày nay đa số các sử gia về khoa học đã bác bỏ luận thuyết này.[25][26][27] Trong lịch sử, Công giáo có vai trò quan trọng bảo trợ cho sự phát triển của khoa học hiện đại.[28] Tôn giáo và chính trị[sửa | sửa mã nguồn]Trong lịch sử, tôn giáo thường đi song song với chính trị. Các hoàng đế Trung Quốc lấy căn cứ quyền của họ từ Thiên mệnh (天命). Giáo hội Công giáo Rôma đã thống trị phần lớn châu Âu cho đến cuộc Cải cách Tin lành. Đến Thời đại Ánh sáng vào thế kỷ 18 tại châu Âu, nhiều triết gia tin vào việc tách biệt giữa giáo hội và nhà nước (separation of church and state). Hiện nay tôn giáo đóng nhiều vai trò khác nhau tại nhiều nơi trên thế giới:
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Kitô hữu đã sinh nhiều và tử vong nhất của bất kỳ nhóm tôn giáo nào trong những năm gần đây, theo các mô hình nhân khẩu học của chúng tôi. Từ năm 2010 đến 2015, ước tính có khoảng 223 triệu em bé được sinh ra cho các bà mẹ Kitô giáo và khoảng 107 triệu Kitô hữu đã chết - tăng tự nhiên 116 triệu. & NBSP; Nhưng trong số các Kitô hữu ở châu Âu, điều ngược lại là đúng: tử vong đông hơn gần 6 triệu trong thời gian ngắn này. Chỉ riêng ở Đức, ước tính có khoảng 1,4 triệu ca tử vong Kitô giáo hơn so với các ca sinh từ năm 2010 đến 2015. Sự giảm tự nhiên này trong dân số Kitô giáo già châu Âu là duy nhất so với các Kitô hữu ở các nơi khác trên thế giới và các nhóm tôn giáo khác. Trên thực tế, người Hồi giáo và người không bị ảnh hưởng ở châu Âu đều trải qua sự gia tăng tự nhiên trong dân số của họ, với báo cáo mới của chúng tôi ước tính rằng có hơn 2 triệu và 1 triệu ca sinh so với tử vong, từ năm 2010 đến 2015.Trên toàn cầu, người Hồi giáo chiếm nhóm tôn giáo lớn thứ hai, với 1,8 tỷ người, tương đương 24%dân số thế giới, tiếp theo là tôn giáo Hồi giáo Nones (16%), Ấn giáo (15%) và Phật tử (7%). Các tín đồ của các tôn giáo dân gian, người Do Thái và các thành viên của các tôn giáo khác tạo nên những cổ phần nhỏ hơn của người dân thế giới. Người Hồi giáo trải qua sự gia tăng tự nhiên lớn nhất trong số tất cả các nhóm tôn giáo, bao gồm cả Kitô hữu. Sinh ra cho người Hồi giáo từ năm 2010 đến 2015 đã đông hơn 152 triệu người (213 triệu ca sinh so với 61 triệu ca tử vong). Trên toàn cầu, tất cả các nhóm lớn đã sinh nhiều hơn là tử vong.Tất nhiên, không phải tất cả các em bé sẽ vẫn còn trong tôn giáo của mẹ chúng. Ở một số quốc gia, bao gồm cả Hoa Kỳ, người lớn khá phổ biến rời khỏi tôn giáo thời thơ ấu của họ và chuyển sang một đức tin khác (hoặc không có đức tin). Tuy nhiên, trên toàn cầu, ảnh hưởng của chuyển đổi tôn giáo bị lu mờ bởi tác động của sự khác biệt về khả năng sinh sản và tử vong.Thật vậy, sự khác biệt về khả năng sinh sản giữa các nhóm tôn giáo là một trong những yếu tố chính đằng sau xu hướng dân số hiện tại và sẽ rất quan trọng cho sự tăng trưởng trong tương lai. Trên toàn cầu, người Hồi giáo có tỷ lệ sinh cao nhất của bất kỳ nhóm tôn giáo nào - trung bình 2,9 trẻ em / phụ nữ, cao hơn mức thay thế (2.1), mức tối thiểu thường cần thiết để duy trì dân số ổn định. Lợi thế sinh sản này là một lý do tại sao người Hồi giáo dự kiến sẽ bắt kịp các Kitô hữu với số lượng tuyệt đối và như một phần của dân số toàn cầu trong những thập kỷ tới. Kitô hữu có tỷ lệ sinh cao thứ hai, ở mức 2,6 trẻ em / phụ nữ. Khả năng sinh sản của người theo đạo Hindu và Do Thái (2.3 mỗi người) đều nằm ngay dưới mức trung bình toàn cầu là 2,4 trẻ em mỗi phụ nữ. Tất cả các nhóm tôn giáo lớn khác có mức sinh sản quá thấp để duy trì dân số của họ. Hãy thử khóa học email của chúng tôi về người Hồi giáo và Hồi giáoTìm hiểu về người Hồi giáo và Hồi giáo thông qua bốn bài học ngắn được gửi đến hộp thư đến của bạn mỗi ngày. Đăng ký ngay! Sự khác biệt về tuổi tác cũng rất quan trọng cho sự tăng trưởng trong tương lai. Một số nhóm tôn giáo, các tín đồ chủ yếu là trẻ, với những năm sinh con chính của họ vẫn ở phía trước họ, trong khi các thành viên của các nhóm khác lớn tuổi và phần lớn là trong những năm sinh con của họ. Người Hồi giáo có độ tuổi trung bình trẻ nhất (24) của tất cả các nhóm tôn giáo, cũng được dự kiến sẽ góp phần vào sự tăng trưởng nhanh chóng của họ. Người Ấn giáo (27) cũng trẻ hơn tuổi trung bình của toàn bộ dân số thế giới (30), trong khi tuổi trung bình của các Kitô hữu (30) phù hợp với trung bình toàn cầu. Tất cả các nhóm khác đều già hơn so với trung bình toàn cầu, đó là một phần lý do họ dự kiến sẽ tụt hậu so với tốc độ tăng trưởng dân số toàn cầu. Bài viết liên quan: Kitô hữu phải đối mặt với sự quấy rối rộng rãi trong năm 2015, nhưng chủ yếu ở các quốc gia đa số Kitô giáo 10 sự thật về tôn giáo ở Mỹ Conrad Hackett & NBSP; là một nhà nhân khẩu học cao cấp và phó giám đốc nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu Pew. David McClendon & NBSP; là một cựu cộng tác viên nghiên cứu tập trung vào nghiên cứu tôn giáo tại Trung tâm nghiên cứu Pew. Ai là tôn giáo số 1 trên thế giới?Trong số các tôn giáo lớn của thế giới, Kitô giáo là lớn nhất, với hơn hai tỷ người theo dõi.Christianity is the largest, with more than two billion followers.
Tôn giáo nào là tốt nhất trên thế giới 2022?Tôn giáo phổ biến nhất là Kitô giáo, tiếp theo là ước tính 2,38 tỷ người trên toàn thế giới.Hồi giáo, được thực hiện bởi hơn 1,91 tỷ người, là thứ hai.Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu dân số dự đoán rằng Hồi giáo sẽ gần như bắt kịp Kitô giáo vào năm 2050.Christianity, followed by an estimated 2.38 billion people worldwide. Islam, which is practiced by more than 1.91 billion people, is second. However, population researchers predict that Islam will have nearly caught up to Christianity by 2050.
Tôn giáo lớn nhất hiện tại là gì?Tôn giáo lớn nhất thế giới theo dân số vẫn là Kitô giáo |Trung tâm nghiên cứu Pew.Christianity | Pew Research Center.
7 tôn giáo thế giới là gì?JUDAISM.. CHRISTIANITY.. ISLAM.. HINDUISM.. BUDDHISM.. SIKHISM.. ANIMISM.. |