Ai không phải là phi công tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ trên không

Lần đầu tiên trong chiến tranh, quân dân Việt Nam đã tổ chức thực hiện thành công một chiến dịch phòng không quy mô lớn, bắn rơi tại chỗ số lượng nhiều nhất máy bay B-52, tạo sự bất ngờ lớn và nỗi kinh hoàng cho phía Mỹ, đồng thời làm chấn động dư luận thế giới.

Tự vệ Nhà máy Y Hà Nội ngày đêm nêu cao tinh thần cảnh giác, luyện tập sẵn sàng chiến đấu, bắn rơi máy bay Mỹ gây tội ác ở Thủ đô trong 12 ngày đêm tháng 12/1972. Ảnh: TTXVN.

Quá trình chuẩn bị của quân dân Việt Nam

Sau trận đánh máy bay B-52 không thành công tại Hải Phòng [16/4/1972], Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam rút ra những nhận xét rất chính xác: Thứ nhất, khả năng Mỹ sử dụng B-52 đánh lớn vào Hà Nội sẽ trở thành hiện thực trong một thời gian không xa, do đó, việc rà soát lại các phương án đánh B-52 bảo vệ Hà Nội và những mục tiêu quan trọng khác càng trở nên cấp thiết. Thứ hai, muốn bắn hạ được B-52, ta không thể dựa vào những kinh nghiệm cũ, mà cần phải đi sâu nghiên cứu địch trên tất cả các mặt, nhất là về chiến thuật, kỹ thuật để tìm ra cách đánh mới phù hợp.

Đặc biệt, việc tìm ra dải nhiễu B-52 để xác định đúng “mục tiêu B-52” sẽ trở thành yếu tố then chốt cho kết quả thắng - thua. Thứ ba, việc đến thời điểm này, chưa có đơn vị tên lửa nào của ta bắn rơi tại chỗ máy bay B-52, cũng như thắng lợi tạm thời của Mỹ trong trận đánh Hải Phòng vừa qua sẽ khiến địch càng dễ chủ quan; quân dân ta có thêm điều kiện để giành chiến thắng. Những nhận xét này đã đặt nền tảng cho một quá trình chuẩn bị khoa học của bộ đội phòng không Quân đội nhân dân Việt Nam.

Phụ nữ, trẻ em và người già tạm rời Thủ đô đi sơ tán trong những ngày giặc Mỹ đánh phá ác liệt cuối tháng 12/1972. Ảnh: TTXVN.

Đến giữa tháng 11/1972, trước thái độ lật lọng của phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, Bộ Chính trị họp bàn, khẳng định quyết tâm đánh bại mọi hành động leo thang chiến tranh của Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, tiếp tục đưa sự nghiệp kháng chiến của nhân dân ta giành thắng lợi to lớn hơn nữa. Ngày 22/11/1972, Trung đoàn tên lửa 263 của ta bắn trúng máy bay B-52 của Mỹ và rơi gần biên giới Lào - Thái Lan [cách vị trí bắn khoảng 200km]. Đây là chiến công có ý nghĩa rất quan trọng, mở ra khả năng ta hoàn toàn có thể bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay B-52 của Mỹ, cổ vũ động viên tinh thần to lớn cho quân dân Việt Nam.

Dựa trên kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn chiến đấu và những hiểu biết ngày càng nhiều về vũ khí, khí tài cùng thủ đoạn hoạt động của địch, tài liệu “Cách đánh B-52” sau nhiều lần bổ sung hoàn chỉnh được ban hành [11/1972], giúp các đơn vị phòng không, không quân thống nhất về tư tưởng và cách đánh, từ đó nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Bên cạnh đó, các mặt công tác bảo đảm, nhất là bảo đảm kỹ thuật được xúc tiến một cách có hiệu quả. Ta khẩn trương xây dựng một số sân bay dã chiến bí mật ở vòng ngoài; bố trí thêm nhiều trận địa nghi binh, trận địa dã chiến cho bộ đội tên lửa, bộ đội cao xạ cơ động; bố trí thêm một số trạm ra-đa nhằm “tăng độ dài cánh sóng”,...

Tại các địa phương, lực lượng dân quân tự vệ được trang bị thêm nhiều loại súng máy, pháo cao xạ và phương tiện cấp cứu. Hệ thống công sự chiến đấu, hầm hào ẩn nấp được sửa chữa hoặc xây dựng thêm. Việc sơ tán các kho hàng, sơ tán nhân dân ở Hà Nội, Hải Phòng được tiến hành khẩn trương. Toàn bộ lực lượng tham gia chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng bao gồm: 6 trung đoàn tên lửa phòng không, 4 trung đoàn không quân tiêm kích, 16 trung đoàn và 22 tiểu đoàn pháo phòng không, 4 trung đoàn rađa, 346 đơn vị pháo và súng máy phòng không của bộ đội địa phương và dân quân tự vệ, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân. Có thể khẳng định: kế hoạch chuẩn bị đánh trả và phòng tránh máy bay B-52 của quân dân Việt Nam đã được triển khai rất tích cực, chủ động và công phu, vượt ra ngoài những toan tính của kẻ thù.

Đại đội 4 pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, trừng trị máy bay Mỹ đến gây tội ác. Ảnh: Văn Bảo - TTXVN.

Chiến công vang dội và bài học lịch sử

Vào hồi 19 giờ 10 phút ngày 18/12/1972, hệ thống ra-đa của ta bắt được tín hiệu máy bay B-52 địch đầu tiên hướng về Hà Nội, mở đầu đòn tập kích chiến lược. 19 giờ 15 phút, Bộ Tổng tư lệnh phát lệnh báo động toàn miền Bắc. Cuộc chiến đấu chính thức bắt đầu. 

Do phán đoán chính xác âm mưu, hành động của địch, có sự chuẩn bị sớm từ trước, quân dân ta ở Hà Nội và các địa phương bước vào chiến dịch phòng không với tinh thần chủ động, bình tĩnh, tự tin. Lúc 20 giờ 13 phút, bộ đội tên lửa của ta bắn hạ chiếc B-52 đầu tiên của chiến dịch [rơi tại Phù Lỗ, Đông Anh, Hà Nội]. Tin chiến thắng lập tức được truyền đi khắp trận địa. 

Với quyết tâm “bắn rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái B-52, tiến đến đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích của không quân Mỹ”, lực lượng phòng không của ta tổ chức hiệp đồng chặt chẽ, phát huy sức mạnh tổng hợp đưa nghệ thuật tác chiến phòng không lên một bước phát triển cao. Các đơn vị rađa có nhiều sáng tạo về kỹ - chiến thuật kịp thời phát hiện cảnh báo sớm mục tiêu B-52. Bộ đội tên lửa thực hiện cách đánh trong nhiễu đạt hiệu suất cao, là lực lượng chủ yếu tiêu diệt B-52, tạo nên bất ngờ lớn đối với địch. Các đơn vị không quân tiêm kích phát huy cách đánh dũng cảm, mưu trí tiêu diệt nhiều máy bay cường kích, đồng thời bắn rơi cả máy bay B-52. Bộ đội pháo cao xạ tích cực đánh trả máy bay cường kích ném bom, bảo vệ an toàn cho trận địa tên lửa. Bộ đội địa phương, dân quân tự vệ triển khai hỏa lực chiến đấu trên địa bàn rộng lớn tạo nên hệ thống lưới lửa đánh máy bay tầm thấp rất lợi hại... 

Ngay trong đêm đầu tiên [18/12], bộ đội ta đã lập chiến công to lớn: bắn rơi 7 máy bay địch, trong đó có 3 máy bay B-52 [2 chiếc rơi tại chỗ], mở ra khả năng đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích của địch. Những ngày tiếp theo, ta tiếp tục bắn rơi thêm nhiều B-52 [đêm 20/12 bắn rơi 7 chiếc; đêm 26/12 bắn rơi 8 chiếc,...] cùng các loại máy bay chiến thuật khác. Bị tổn thất nặng nề, đến sáng ngày 30/12/1972, Richard Nixon buộc phải tuyên bố chấm dứt cuộc tập kích đường không chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, chấp nhận nối lại đàm phán với ta tại Hội nghị Paris.

Kết quả toàn chiến dịch, ta bắn rơi 81 máy bay các loại [trong đó có 34 B-52 và 5 F-111], diệt và bắt sống nhiều phi công Mỹ. Riêng ở Thủ đô Hà Nội, ta bắn rơi 30 máy bay [trong đó có 23 B-52 và 2 F-111]. Dư luận phương Tây gọi chiến thắng này là trận “Điện Biên Phủ trên không”. Lần đầu tiên trong chiến tranh, quân dân Việt Nam đã tổ chức thực hiện thành công một chiến dịch phòng không quy mô lớn, bắn rơi tại chỗ số lượng nhiều nhất máy bay B-52, tạo sự bất ngờ lớn và nỗi kinh hoàng cho phía Mỹ, đồng thời làm chấn động dư luận thế giới. Bản thân Richard Nixon cũng thú nhận: “Mối lo lớn nhất của tôi không phải là làn sóng phê phán đến từ trong nước cũng như ngoài nước như đã dự kiến mà là tầm quan trọng của những tổn thất bằng B52” [trích Hồi ký Richard Nixon].

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không 1972” đóng vai trò quyết định trực tiếp buộc chính phủ Mỹ phải ký kết Hiệp định Paris [27/1/1973] về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, rút hết quân viễn chinh, quân đồng minh về nước, mở ra bước ngoặt mới cho toàn bộ sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc; đồng thời làm nức lòng bè bạn và nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, đẩy lùi “tâm lí sợ hãi” về cái gọi là “sức mạnh khủng khiếp của không quân chiến lược Mỹ”.

Người dân Thủ đô chăm chú theo dõi tin chiến thắng qua báo chí hàng ngày và các bảng thông tin, trong những ngày Mỹ đánh phá ác liệt cuối tháng 12/1972. [Ảnh: Tư liệu TTXVN] 

Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu cho kho tàng nghệ thuật quân sự Việt Nam, đặc biệt nghệ thuật chiến dịch phòng không như: phán đoán chính xác âm mưu, thủ đoạn tập kích của không quân địch, sớm có kế hoạch chuẩn bị chu đáo, mở màn chiến dịch chủ động; quán triệt yêu cầu chiến lược, nêu cao quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ; xác định đúng đối tượng tác chiến, chỉ đạo chiến thuật linh hoạt, sáng tạo; sử dụng lực lượng phù hợp, phát huy sức mạnh tổng hợp các binh chủng, từng binh chủng; chỉ huy tập trung, thống nhất, bảo đảm tác chiến hiệp đồng chặt chẽ.

Những bài học kinh nghiệm quí báu này rất cần được chắt lọc, vận dụng phù hợp, sáng tạo trong công tác huấn luyện, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt nhiệm vụ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay. /.

Hà Nội mùa đông năm 1972 cách đây 47 năm đã chứng kiến 12 ngày đêm khói lửa trong trận chiến Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không với chiến thắng vang dội, đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ đưa Hà Nội về thời kỳ “đồ đá”.Chiến thắng Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không đã buộc Mỹ phải xuống thang, ngồi vào bàn đàm phán để ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, đồng thời cũng tạo tiền đề cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975.

Nhắc đến "Điện Biên Phủ trên không" không thể không nhắc tới Anh hùng phi công Phạm Tuân- phi công đầu tiên bắn rơi B52 trên bầu trời Hà Nội.  

Anh hùng phi công Phạm Tuân 

Trở thành phi công từ anh thợ máy

Phạm Tuân quê ở Tiền Hải, Thái Bình. Tháng 9 năm 1965, khi đang học năm cuối cấp III, Phạm Tuân được gọi vào nhập ngũ. Lúc đó chàng thanh niên Phạm Tuân chỉ cao 1,65m và nặng 52kg, không đủ tiêu chuẩn để thi tuyển phi công. Phạm Tuân đi học thợ máy, sửa chữa máy bay. Sau một thời gian ngắn, do thiếu phi công chiến đấu, Phạm Tuân được tuyển lại học phi công và tốt nghiệp trường Không quân Liên Xô năm 1967, về nước chiến đấu năm 1968 cho đến hết chiến tranh. 

Giữa năm 1972, ông là một trong 12 phi công được chọn để đào tạo lái tiêm kích bay đêm, chuẩn bị cho việc bắn hạ máy bay B-52 [tiêm kích bay đêm yêu cầu kỹ thuật cao hơn nhiều so với lái tiêm kích ban ngày].

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng ký ức của ông về trận chiến 12 ngày đêm lịch sử trên bầu trời Hà Nội năm 1972 là ký ức hào hùng nhất.

Đêm 18/12, khoảng 7h tối, địch bắt đầu mở chiến dịch đánh vào Hà Nội. B52 bay ở độ cao khoảng 10km, tốc độ từ 900-950km/giờ. MIG- 21 của Việt Nam khi đó có thể tiêu diệt B52. Tuy hiên, chúng chuẩn bị rất kỹ lưỡng để đưa B52 vào Hà Nội. Mỗi khi xuất kích chiến đấu, B52 thường được nhiều máy bay khác bay cùng để yểm trợ như F4,F100, F111,... Mặt khác, hệ thống làm nhiễu sóng ra đa của các máy bay này rất tốt, nên chúng ta rất khó phát hiện ra B52 để triển khai tấn công.

“Chúng tôi nhận được lệnh của trên là bằng mọi cách phải ngăn chặn. Không quân phải cất cánh, tên lửa phải đánh với mệnh lệnh, nếu không bắn được B52 thì phải xua đuổi để không cho chúng vào Hà Nội. Bảo vệ mục tiêu là trên hết” – Trung tướng Phạm Tuân nhớ lại.  

Và cái tên Phạm Tuân đã đi vào lịch sử khi ông bắn rơi một máy bay B-52 của Mỹ, trở thành người đầu tiên bắn hạ được loại máy bay này từ trên không và trở về an toàn.

Máy bay tiêm kích MIG-21 F96 mang số hiệu 5121 do anh hùng Phạm Tuân lái đã bắn hạ siêu pháo đài bay B52. 

Máy bay B52 của Mỹ thời đó được coi là “Siêu pháo đài bay”, là một trong 3 loại vũ khí chiến lược của Mỹ lúc bấy giờ, gồm: B52, tàu ngầm nguyên tử và tên lửa hạt nhân. Đó là vũ khí chiến lược, hay còn gọi là “quả đấm thép” của Mỹ để triển khai cuộc chiến tranh hiện đại.

Phi công đầu tiên bắn rơi B52

Khoảng 17h ngày 27/12/1972, Phạm Tuân điều khiển máy bay tiêm kích MIG-21 hạ cánh xuống sân bay Yên Bái. Đến khoảng 22h cùng ngày, Phạm Tuân được lệnh xuất kích từ sân bay này, khi bay qua tầng mây, ông đã nhìn thấy rất nhiều máy bay yểm trợ cho B.52 là F4, nhưng không được đánh và phải bay vòng qua để tìm B52. F4 lúc đó cũng không phát hiện ra MIG-21.

Sau khi vọt qua đội F-4 hộ tống, ông tiếp cận hai chiếc B-52, khi còn cách B-52 khoảng 4 km, dẫn đường mặt đất ra lệnh bắn, nhưng Phạm Tuân chờ thêm mấy giây để tiếp cận gần hơn rồi mới bắn. Chiếc MiG-21 cũng tắt radar và các thiết bị liên lạc để B-52 không phát hiện ra là đang bị áp sát. Ông bắn rơi một chiếc trên vùng trời phía tây Hà Nội bằng 2 quả tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2, rồi trở về hạ cánh xuống sân bay Yên Bái.

“Đấy là trận đầu tiên không quân bắn rơi B52. Chúng tôi vui lắm vì không quân đã hoàn thành nhiệm vụ!” – Trung tướng Phạm Tuân kể.

Anh hùng Phạm Tuân thời trẻ. Ảnh tư liệu 

Nói về nguyên nhân vì sao phải đến giai đoạn cuối của chiến dịch 12 ngày đêm "Hà Nội — Điện Biên Phủ trên không" — từ tối 18/12/1972 đến ngày 29/12/1972, không quân của ta mới bắn rơi được máy bay B52 của Mỹ, trong khi đó các lực lượng khác đã bắn hạ được B52 rất nhiều, Trung tướng Phạm Tuân cho biết: Trước khi đem B52 ra đánh phá miền Bắc, Mỹ đã nghiên cứu rất kỹ lực lượng, phương tiện của chúng ta. Mỹ nắm rất rõ chúng ta có những loại tên lửa, pháo, máy bay nào… và thuộc từng sân bay của ta. Do đó, Mỹ rất tự tin mang B52 ra ném bom, đánh phá Hà Nội và các tỉnh khác vào cuối năm 1972.

Trong 12 ngày đêm, địch đã xuất kích 663 lần/chiếc máy bay chiến lược B52 và hơn 3.800 lần/chiếc máy bay chiến thuật các loại. Ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 máy bay B52 và 5 máy bay F11.

Ba lần được phong tặng Anh hùng

Sau chiến công xuất sắc hạ B52 trong trận “Điện Biên Phủ trên không”, phi công Phạm Tuân được trao tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Tiếp đó khi từ vũ trụ trở về, ông được Đảng và Nhà nước ta tặng danh hiệu Anh hùng Lao động và Huân chương Hồ Chí Minh. Cũng năm đó [1980], ông vinh dự trở thành một trong những người nước ngoài đầu tiên được trao tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, kèm theo Huân chương Lê-nin khi mới 33 tuổi.

Nhìn lại lịch sử, soi lại quá khứ, Trung tướng Phạm Tuân khẳng định: “Dưới thời đại Hồ Chí Minh, trận Điện Biên Phủ trên không mang ý nghĩa hết sức lớn lao, đánh dấu bước thất bại của Đế quốc Mỹ trên chiến trường Việt Nam. Nếu như chúng ta không có trận Điện Biên Phủ trên không, chắc chắn cuộc chiến tranh của chúng ta còn kéo dài và sẽ còn những gian khổ, hy sinh nhiều hơn. Chiến thắng này đã buộc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, đi đến việc ký kết Hiệp định Paris ngày 27/1/1973”

"Sau này, Mỹ đã dùng các loại vũ khí hiện đại đánh ở nhiều nước thuộc khu vực Trung Đông như Syria, Iraq. Họ có lực lượng mạnh hơn Việt Nam nhưng cũng không thể làm nên chiến thắng như Việt Nam đã làm bởi chúng ta có ý chí, có sách lược và nghệ thuật quân sự, tạo thành sức mạnh tổng hợp hết sức to lớn mà ngay cả Mỹ cũng không đánh giá hết được"- Anh hùng Phạm Tuân cho biết.     

Trao truyền lịch sử cho thế hệ trẻ 

Bước sang tuổi 74, Anh hùng Phạm Tuân đã có 12 năm nghỉ hưu. Nhiều năm tham gia chiến trận, giờ là lúc ông muốn được nghỉ ngơi, đi thăm thật nhiều nơi trên đất nước Việt Nam- những nơi mà trước đây, ông chỉ nhìn thấy từ trên cao. Ông bảo, mình thật may mắn vì đã đi hết chiến tranh mà vẫn còn lành lặn để hưởng không khí hòa bình. 

Anh hùng Phạm Tuân được các em học sinh mến mộ

Khi đến nói chuyện với thế hệ trẻ, ông thường rất tự hào khi nói về Không quân Việt Nam, về trận chiến 12 ngày đêm lịch sử, về những kỷ niệm đáng nhớ khi bay vào Vũ trụ, truyền cảm hứng và khát vọng tuổi trẻ cho các em. 

Năm nay, đúng dịp kỷ niệm trận Điện Biên Phủ trên không, Trung tướng Phạm Tuân dù không được khỏe do cái chân của ông đang đau, nhưng ông vẫn dành thời gian đến nói chuyện với các em học sinh ở trường THCS Chu Mạnh Trinh- huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. 

“Tôi muốn các em đừng bao giờ quên lịch sử, nhất là những người trẻ. Chúng ta đã có một quá khứ hào hùng, Hà Nội từng trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt. Tôi muốn kể lại để các em hiểu được, thời đó, cha anh chúng đã sống và chiến đấu thế nào. Tôi muốn các em đừng quên trận chiến Điện Biên Phủ trên không và 12 ngày đêm lịch sử của Hà Nội"- Trung tướng Phạm Tuân cho biết. 

Trung tướng Phạm Tuân xúc động đón nhận bó hoa từ cô hiệu trưởng trường THCS Chu Mạnh Trinh [Văn Giang- Hưng Yên].

Chọn một cuộc sống giản dị khi rời cánh bay, Phạm Tuân- người 3 lần được phong Anh hùng nói rằng: Tôi rất vinh dự khi được nhận những nhiệm vụ trọng đại mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Nhờ có tập thể, nhờ có nhân dân, nhờ có đồng chí, đồng đội, mình đã vượt qua khó khăn và hoàn thành nhiệm vụ. Danh hiệu Anh hùng thuộc về nhân dân, về đồng chí, đồng đội mà mình chỉ là người thực hiện mà thôi./.

Video liên quan

Chủ Đề