Các tổ chức xã hội là gì năm 2024

Tổ chức chính trị - xã hội là một trong những tổ chức xã hội góp phần vào việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đây là tổ chức mang màu sắc chính trị, đại diện cho ý chí của các tầng lớp trong xã hội trong hoạt động của bộ máy nhà nước.

Tổ chức chính trị - xã hội là các tổ chức tự nguyện được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có hệ thống tổ chức từ trung ương đến địa phương. Các tổ chức xã hội này có điều lệ hoạt động do hội nghị toàn thể hoặc hội nghị đại biểu các thành viên thông qua. Bao gồm:

  • Mặt trận tổ quốc Việt Nam
    • Đây là liên minh chính trị - tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đoàn thể nhân dân và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo;
    • Là tổ chức đại diện cho ý chí đại đoàn kết và nguyện vọng chân chính của nhân dân;
    • Nơi tập hợp trí tuệ của con người Việt Nam yêu nước, nơi thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, phối hợp với chính quyền thực hiện nền dân chủ, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân;
    • Giám sát, bảo vệ, tham gia xây dựng nhà nước, quản lí xã hội.
    • Mặt trận tổ quốc Việt Nam được thành lập theo cơ chế bầu cử dân chủ được phân cấp để hoạt động trong phạm vi toàn quốc.
  • Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
    • Là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân, đội ngũ trí thức và những người lao động tự nguyện lập ra;
    • Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có tính chất quần chúng và tính chất giai cấp công nhân, có chức năng: Đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của công nhân viên chức lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; giáo dục, động viên công nhân viên chức lao động phát huy quyền làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  • Ðoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
    • Là tổ chức chính trị - xã hội tập hợp tầng lớp thanh niên, là đoàn thể của các thanh niên ưu tú, đội hậu bị của Đảng.
    • Tổ chức Đoàn được thành lập trên phạm vi cả nước, có mặt ở hầu hết các cơ quan, đơn vị, tổ chức từ trung ương đến địa phương nhằm thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, lành mạnh, qua đó giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho đoàn viên thanh niên.
    • Ðoàn thanh niên cũng là nơi đào tạo ra các viên chức, cán bộ có phẩm chất trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ những chức vụ trọng trách trong các tổ chức chính trị xã hội, ví dụ như Ðảng, công đoàn.
  • Hội liên hiệp Phụ nữ
    • Là tổ chức chính trị - xã hội của giới nữ, có chức năng đại diện cho quyền bình đẳng, dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng.
    • Hội đoàn kết, vận động, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
  • Hội Nông dân Việt Nam
    • Là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cơ sở chính trị của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
    • Được thành lập nhằm động viện, tổ chức nông dân lao động trong cả nước hăng hái tham gia sản xuất, giáo dục tinh thần yêu nước. Mặt khác, hội còn là tổ chức bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của giai cấp nông dân Việt Nam- một bộ phân dân cư lớn nhất ở nước ta.​
  • Hội Cựu chiến binh Việt Nam
    • Là đoàn thể chính trị - xã hội, thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, một tổ chức trong hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, hoạt động theo đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước và Điều lệ của Hội.
    • Mục đích của Hội là tập hợp, đoàn kết, tổ chức, động viên các thế hệ cựu chiến binh giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền, chế độ, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của cựu chiến binh, chăm lo giúp đỡ nhau về tinh thần và vật chất trong cuộc sống, gắn bó tình bạn chiến đấu.

Ngoài các tổ chức trên đây, nhiều tổ chức xã hội khác cũng được coi là tổ chức chính trị - xã hội như Liên hiệp các hội khoa học kĩ thuật Việt Nam (VUSTA), Hội Nhà báo Việt Nam, Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam...

(LLCT) - Dự thảo Luật về Hội đã được đưa ra lấy ý kiến lần thứ nhất, sau khi tiếp thu ý kiến chỉnh sửa để hoàn thiện trình Quốc hội ban hành trong thời gian tới. Đây là một dự thảo luật đầu tiên trực tiếp liên quan đến quyền dân sự chính trị của công dân là quyền tự do hiệp hội, được ban hành sau Hiến pháp năm 2013. Bài viết khái quát về vai trò của các tổ chức xã hội trong bối cảnh hiện nay và quy định pháp luật về Hội, mong muốn góp bàn vào việc xây dựng chính sách phù hợp, để tạo ra môi trường cho các tổ chức xã hội hoạt động và đóng góp nhiều hơn nữa cho xã hội.

1. Vai trò của các tổ chức xã hội ở Việt Nam

Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về tổ chức xã hội (TCXH)(1). Các quan niệm được nhiều người biết đến và thừa nhận thường là: TCXH là một “mảng” của đời sống xã hội, theo đó chứa những đặc trưng về tính độc lập (khỏi các thiết chế chính trị và kinh tế), phi lợi nhuận và là tập hợp hoàn toàn mang tính tự nguyện của những công dân.TCXH là “một mảng các hành động tập thể tự nguyện xoay xung quanh các giá trị, mục tiêu, lợi ích chung […], thường được hình thành dưới dạng các tổ chức như các hội từ thiện, hiệp hội, nghiệp đoàn, các nhóm tương trợ, các phong trào xã hội, các hiệp hội kinh doanh, các liên minh, và các nhóm vận động, tư vấn”(2). TCXH là lĩnh vực, ở bên ngoài gia đình, nhà nước, và thị trường, nơi người dân kết hợp hoạt động nhằm đạt được các lợi ích chung.

Ở Việt Nam, nếu hiểu theo nghĩa rộng, TCXH bao hàm tất cả các tổ chức hợp thành xã hội và trong xã hội. Với ý nghĩa đó, TCXH ở Việt Nam bao gồm (1) tổ chức chính trị, (2) tổ chức chính trị - xã hội, (3) tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, 4) tổ chức xã hội - nghề nghiệp và 5) tổ chức xã hội(3). Theo nghĩa hẹp, TCXH là tập hợp của các hình thức phi nhà nước và phi chính trị, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tự quản, cộng đồng, hội nghề nghiệp và từ thiện. Theo nghĩa này, TCXH dùng chỉ một hình thức liên kết giữa các cá nhân và nhóm xã hội không dựa trên bất cứ mối liên kết chính trị nào mà dựa trên mối liên kết dân sự giữa họ-mối liên kết giữa những thành viên tự nguyện, tự quản thành các tổ chức của các cộng đồng, đoàn thể nhân dân. Đây chính là các tổ chức của các cộng đồng, đoàn thể nhân dân(4).

Về số lượng các TCXH ở Việt Nam, năm 2015 cả nước có 52.580 hội (498 hội hoạt động phạm vi cả nước và 52.082 hội hoạt động phạm vi địa phương), trong đó có 8.792 hội có tính chất đặc thù (28 hội hoạt động phạm vi cả nước và 8.764 hội hoạt động phạm vi địa phương)(5).

Số liệu nêu trên chưa tính tới các tổ chức tự lập của nhân dân (hội đồng hương, hội chơi tem,...), theo Bộ Nội vụ, đây là những tổ chức không có tư cách pháp nhân, hoạt động chỉ thuần túy thông qua các buổi giao lưu, hội họp. Đồng thời, chưa có đủ thông tin để xác định rằng số liệu chính thức nêu trên đã hoặc chưa bao gồm số lượng các tổ chức xã hội (trung tâm, viện, quỹ, diễn đàn, v.v.) được thành lập trực thuộc các tổ chức quần chúng công như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam...

Các TCXH ở Việt Nam trong thời gian qua đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Cụ thể là:

- Với số lượng đông đảo và có hệ thống tổ chức liên kết khắp nơi, trải dài, rộng, các TCXH có thể tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện đại đoàn kết dân tộc, động viên nhân dân tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội thúc đẩy xã hội phát triển;

- Các TCXH tích cực phát triển, cung cấp các dịch vụ, thực hiện các chương trình, dự án, các chương trình xã hội hóa giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học, bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo, từ thiện nhân đạo, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm… Ở khía cạnh này, các TCXH là lực lượng tích cực tham gia khỏa lấp khiếm khuyết của nền kinh tế thị trường, góp phần thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng công bằng, văn minh bởi lĩnh vực hoạt động của các TCXH rất đa dạng, địa bàn hoạt động khắp cả nước và đối tượng thụ hưởng các hoạt động của các TCXH cũng vô cùng đa dạng nhưng tập trung nhiều vào các nhóm đối tượng yếm thế, dễ bị tổn thương…

- Các TCXH tham gia vận động chính sách và đại diện cho hội viên và cộng đồng trong giải quyết quyết các vấn đề xã hội. Ở vai trò này, các TCXH không chỉ tập hợp quần chúng và động viên mọi người tham gia vào giải quyết các vấn đề xã hội, tuyên truyền, vận động hội viên và nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước mà còn là cầu nối giữa Nhà nước với người dân, phản ảnh nguyện vọng của người dân, tham gia đóng góp, xây dựng chính sách, giám sát và thực thi chính sách, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh;

- Các TCXH còn góp phần thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết trong nước và đối ngoại quốc tế, là lực lượng đối ngoại nhân dân. Ở khía cạnh này, các TCXH có vai trò lớn trong công tác đối ngoại khi có mối quan hệ rộng rãi với nhân dân các nước, góp phần làm cho các nước hiểu và tăng cường hợp tác với Việt Nam, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè trên thế giới cũng như vận động sự ủng hộ vật chất, tinh thần trong qua trình xây dựng đất nước thông qua các hoạt động hỗ trợ phát triển như xoá đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống y tế, giáo dục, từ thiện, nhân đạo,…

- Ngoài ra, các TCXH còn có vai trò giám sát và đưa ra các tiêu chuẩn như: minh bạch giải trình, quản trị tốt, các nguyên tắc đạo đức và ứng xử trong công việc, trong kinh doanh…

2. Thực trạng các quy định pháp luật về tổ chức xã hội ở Việt Nam

Sắc lệnh số 102/SL/L004 ngày 20/5/1957(6) ban hành Luật về quyền tự do hội họp. Văn bản này đã tạo căn cứ pháp lý để Đảng, Nhà nước ta tập hợp quần chúng, hội quần chúng đoàn kết đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, thực hiện xây dựng Nhà nước ta trong từng giai đoạn cách mạng.

Hiện nay, liên quan đến quyền lập hội của công dân hiện nay chủ yếu được điều chỉnh bằng văn bản dưới luật. Chính phủ đã ban hành các Nghị định số 88/2003/NĐ-CP ngày 30/7/2003; Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010; Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Nghị định số 30/2012/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 148/2007/NĐ-CP) quy định về tổ chức hoạt động của các quỹ xã hội từ thiện; Nghị định 77/2008/NĐ-CP (Thay thế Nghị định số 65/2003 và Nghị định 25/2001) của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật và ban hành quy chế thành lập cơ sở bảo trợ xã hội; Nghị định 08/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khoa học Công nghệ... Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg ngày 1/11/2010 về việc quy định hội có tính chất đặc thù, Quyết định số 30/2011/QĐ-TTg ngày 1/6/2011 về chế độ thù lao đối với người nghỉ hưu giữ chức danh lãnh đạo chuyên trách tại các hội, Quyết định số 71/2011/QĐ-TTg ngày 20/12/2011 về bảo đảm, hỗ trợ kinh phí từ ngân sách nhà nước đối với các hội có tính chất đặc thù...

Với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành nêu trên, thể chế quản lý tổ chức và hoạt động của các hội được thể hiện tương đối đầy đủ trên các phương diện như: quy định về quyền lập hội của công dân Việt Nam; quan niệm về hội, quỹ; quy định quyền và nghĩa vụ của hội; quy định điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập hội; trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập hội; quy định về pháp nhân của hội, quỹ; quy định về tạo nguồn tài chính cho hội; chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập; quy định về hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam; quy định về ký kết và thỏa thuận quốc tế của các tổ chức xã hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp ký kết với tổ chức nước ngoài...

Nhìn chung, hệ thống luật pháp điều chỉnh tổ chức và hoạt động của hội ở nước ta từng bước được bổ sung, cụ thể hóa phù hợp với hoàn cảnh mới. Quyền về hội của công dân được tôn trọng và thể hiện cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan nhằm đảm bảo quyền tự do của công dân và nhu cầu chính đáng của các tầng lớp xã hội; đồng thời góp phần hình thành nhận thức, quan niệm mới về vai trò thiết thực, tính đa dạng của các hội quần chúng. Nhờ đó, trong thời qua, số hội tăng nhanh và từng bước củng cố về tổ chức và hoạt động theo hướng chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, chú trọng hơn việc kiện toàn tổ chức hội: xây dựng quy chế tổ chức hoạt động của ban chấp hành, ban thường vụ, quản lý các đơn vị trực thuộc; một số hội đã xây dựng quy tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp của hội.

Các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành đã tạo điều kiện cho các hội tham gia hoạt động xã hội, từ thiện nhân đạo, cung ứng dịch vụ. Đặc biệt, Chính phủ ban hành các chính sách khuyến khích, phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập thông qua hệ thống chính sách: thuế, đất, kinh phí thực hiện các đề án nhà nước.

Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều bất cập trong hệ thống pháp luật hiện hành và trong tổ chức, hoạt động của hội. Cụ thể như sau:

- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hội khá phức tạp, với nhiều loại văn bản, nhiều vấn đề chưa được quy định rõ ràng, phù hợp, chẳng hạn: về các tổ chức không có hội viên và các tổ chức tại cộng đồng; quy định về đầu mối quản lý thống nhất các hội; cơ chế đánh giá, giám sát trách nhiệm giải trình và tính công khai, minh bạch của các hội; chính sách khuyến khích và ưu đãi thuế dành cho các hội hoạt động phi lợi nhuận, vì lợi ích công cộng; cơ chế đối thoại và hợp tác giữa các hội với Nhà nước và khu vực tư nhân...

Các hội còn có các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh khác nhau, chưa có sự thống nhất, đồng bộ, như: Liên đoàn Luật sư Việt Nam được điều chỉnh theo Luật Luật sư và Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14-10-2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư năm 2012, do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập và Bộ Tư pháp phê duyệt Điều lệ. Nghị định số 08/1998/NĐ-CP ngày 22-1-1998 của Chính phủ ban hành Quy chế thành lập Hiệp hội doanh nghiệp nước ngoài do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thành lập, nhưng Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội chỉ cho phép các doanh nghiệp Việt Nam có yếu tố nước ngoài là hội viên liên kết.

- Về chủ thể và nội dung của quyền lập hội: Việc giới hạn chủ thể quyền lập hội chỉ là công dân trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013 là hạn hẹp hơn so với pháp luật quốc tế và xu hướng trên thế giới. Đồng thời, về nội dung, khái niệm “quyền lập hội” được dùng trong Điều 25 Hiến pháp năm 2013 hẹp hơn so với khái niệm “quyền tự do hiệp hội” theo luật nhân quyền quốc tế. Sự bất cập đó đang gây khó khăn cho việc xây dựng luật về hội và việc thực hiện pháp luật về hội. Bởi lẽ, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, không thể loại trừ hàng triệu người nước ngoài đang sinh sống, làm việc hợp pháp ở Việt Nam tham gia các hội của họ hoặc của Việt Nam, ví dụ như các công đoàn, hội đồng hương, hội doanh nghiệp...

- Về các điều kiện thành lập hội, với các quy định hẹp và cứng nhắc nêu trong Nghị định 45/CP (và trong chế định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự 2015) nhiều dạng hội khó hoặc không thể thành lập đúng pháp luật. Vì vậy, thực tế có những nhóm, câu lạc bộ, mạng lưới, diễn đàn, hội đoàn... đã hình thành và hoạt động sôi nổi nhưng do thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng nên không thể làm các thủ tục thành lập, rơi vào tình trạng bị coi là bất hợp pháp hoặc chưa được nhà nước thừa nhận.

Nhìn chung, các quy định pháp luật về thành lập hội trong Nghị định 45/CP, Bộ luật Dân sự 2015 và các văn bản pháp luật liên quan vẫn thiên về tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan hành chính, cọi nhẹ sự tự do trong việc thành lập và tham gia các hội của người dân, cách tiếp cận vẫn theo hướng ban phát, quản lý, chưa phải là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền tự do theo Hiến pháp năm 2013.

- Về mối quan hệ giữa các hội, pháp luật hiện chưa bảo đảm sự bình đẳng giữa các tổ chức, hội đoàn trong xã hội.

Trước khi có Nghị định số 45/2010/NĐ-CP, một sốhội có tính chất chính trị - xã hội, hội có đảng đoàn, hội có tính chất chính trị - xã hội - nghề nghiệp và hội có tính chất đặc thù khác được hỗ trợ kinh phí hoạt động gắn với nhiệm vụ Nhà nước giao theo Quyết định số 21/2003/QĐ-TTg ngày 29/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về ngân sách nhà nước hỗ trợ cho các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp đối với những hoạt động gắn với nhiệm vụ của Nhà nước và Quyết định số 247/2006/QĐ-TTg ngày 30/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 21/2003/QĐ-TTg. Việc quy định các hội có tính chất đặc thù được hưởng một số quyền “đặc thù” như: tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách; thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, dịch vụ công; tư vấn, phản biện và giám định xã hội…và được cấp kinh phí hoạt động theo số biên chế được giao; bảo đảm kinh phí để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao và hỗ trợ cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động… trong nhiều trường hợp có thể gây ra tình trạng thiếu công bằng giữa các hội và dễ dẫn đến “xin - cho”.

Đến nay, theo quy định pháp luật hiện hành về hội, các hội được xác định là hội có tính chất đặc thù theo Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg và áp dụng một số quy định riêng về cơ chế, chính sách (được giao biên chế, cấp kinh phí hoạt động) đã dẫn đến số lượng lớn hội được công nhận và tiếp tục đề nghị được công nhận là hội có tính chất đặc thù, do đó việc hỗ trợ kinh phí và giao biên chế trong toàn quốc là khá lớn (số hội được công nhận là hội có tính chất đặc thù ở địa phương là 8.764 hội và số biên chế đã giao là 6.771 người). Tình trạng này cũng không phù hợp với nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự lo kinh phí và chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước, chưa phù hợp với Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về một số vấn đề về tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020, trong đó nêu rằng: “Từ nay đến 2016…, cơ bản không tăng biên chế (trừ trường hợp lập thêm tổ chức hoặc phát sinh nhiệm vụ mới)” và Kết luận số 64-KL/TW ngày 28/5/2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở: “…Quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự đảm bảo kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật. Sửa đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về quản lý tổ chức và hoạt động hội phù hợp với tình hình mới…”.

Do đặc điểm của Việt Nam, một số hội do Đảng, Nhà nước thành lập và yêu cầu cần có đội ngũ chuyên trách chuyên nghiệp hoạt động như: Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, Liên minh Hợp tác xã, Hội Chữ thập đỏ,... cần có cơ chế quản lý, tổ chức và hoạt động phù hợp. Trong thực tế, một số hội được xác định là tổ chức chính trị - xã hội và hội có đảng đoàn đã tiếp tục đề nghị Đảng và Nhà nước có cơ chế, chính sách riêng. Chẳng hạn: Thực hiện điều lệ chung trong phạm vi toàn quốc và điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tổ chức hình thành theo xu thế “hành chính 4 cấp”, có chế độ, chính sách đối với người làm công tác hội.

- Một số quy định của pháp luật về hội và pháp luật có liên quan đã phát sinh vướng mắc, còn có vấn đề bất hợp lý khi tổ chức thực hiện, chưa đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật, như: Việc công nhận hội có tính chất đặc thù tại các địa phương; việc quản lý, sử dụng và chế độ, chính sách đối với người làm công tác hội theo chỉ tiêu biên chế được giao, mức thù lao, đối tượng hưởng thù lao... đã tạo ra bất hợp lý, thiếu công bằng trong các hội. Nhiều quy định về quyền và nghĩa vụ của hội thiếu cụ thể, thường được gắn với “theo quy định của pháp luật” trong khi pháp luật chưa có quy định, do đó trên thực tế rất khó thực thi. Thí dụ, việc thực hiện một số quyền của hội đặc thù tham gia xây dựng các cơ chế, chính sách liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về lĩnh vực hoạt động của hội; tham gia thực hiện một số hoạt động quản lý nhà nước, dịch vụ công thuộc lĩnh vực hoạt động của hội theo quy định của pháp luật; quyền tư vấn, phản biện và giám định xã hội đối với chính sách, chương trình, đề tài, dự án do cơ quan nhà nước yêu cầu về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của hội rất khó thực hiện...

- Về việc gây quỹ và tổ chức các hoạt động của hội, hiện có nhiều loại quy định khác nhau đối với các loại tổ chức và hoạt động khác nhau. Song quan điểm chung cho rằng các quy định đó mang tính chất phiền hà, phức tạp và khắt khe hơn nhiều so với nhiều quốc gia khác. Thí dụ: văn bản hiện hành điều chỉnh việc tiếp nhận tài trợ nước ngoài là Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài (ban hành theo Nghị đinh số 93/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009, được hướng dẫn bởi Thông tư 07/2010/TT -BKHĐT ngày 30/3/2010 của Bộ Kế hoạch và đầu tư). Ngoài các văn bản này, tại nhiều địa phương, UBND tỉnh còn ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi Chính phủ nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Các văn bản này quy định một quy trình khai báo, tiếp nhận viện trợ nhiều bước rất phức tạp và tốn thời gian.

- Về cơ chế bảo vệ quyền tự do hiệp hội: các hội có thể sử dụng cơ chế khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện theo thủ tục hành chính hay tư pháp để bảo vệ quyền tự do hiệp hội. Tuy nhiên, từ một số vụ việc cho thấy, khiếu nại về quyền lập hội của người dân chưa được các cơ quan hành chính giải quyết kịp thời, chưa có vụ việc nào liên quan đến quyền lập hội được tòa án các cấp thụ lý.

- Văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa có quy định về chế tài xử lý khi các hội vi phạm trong quá trình hoạt động, chưa có quy định về thu hồi con dấu khi hội có mâu thuẫn nội bộ kéo dài và không tự giải quyết được. Các quy định pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật về hội chưa cụ thể và bao quát những vấn đề mới phát sinh, do đó các cơ quan quản lý nhà nước chưa có đủ căn cứ pháp lý để xem xét, giải quyết xử lý vi phạm đối với hội.

- Việc xây dựng hệ thống thể chế pháp luật về hội còn thiếu một chiến lược tổng thể và những bước đi phù hợp. Dự thảo Luật về Hội được chuẩn bị trong thời gian khá dài, nhiều lần lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức, cá nhân liên quan nhưng vẫn chưa được ban hành. Nhiều quy định không còn phù hợp, nhưng chậm được bổ sung, sửa đổi. Một số vấn đề có tính chất quan điểm trong việc quản lý (cấp phép hay không) đối với các hiệp hội của tổ chức kinh tế có sự tham gia của người nước ngoài hay đối với các hội không chính thức còn thiếu thống nhất và lúng túng.

Hiến pháp năm 2013 đã có những quy định mới về quyền tự do hội họp và các nguyên tắc bảo đảm quyền con người, quyền công dân như: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25); "Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng” (Khoản 2 Điều 14). Khoản 4 Điều 15 quy định: “Việc thực hiện quyền con người, quyên công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp phá của người khác. Đây chính là nền tảng pháp lý quan trọng để Nhà nước xây dựng và ban hành Luật về hội và các văn bản có liên quan nhằm hiện thực hóa quyền tự do hội họp của cá nhân và công dân Việt Nam.

3. Một số khuyến nghị nhằm tăng cường khung pháp lý cho tổ chức xã hội ở Việt Nam và góp ý hoàn thiện Luật về hội

Thứ nhất, đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của tổ chức xã hội trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập thế giới hiện nay, cùng với nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường, các hiệp hội đã trở thành một trong 3 trụ cột của sự phát triển xã hội hiện đại. Để tương xứng với vị thế trụ cột đó, cần thay đổi tư duy và nhận thức đầy đủ, đúng đắn, toàn diện hơn về vai trò của các tổ chức xã hội nói chung và các hiệp hội nói riêng. Điều đó đòi hỏi các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể cần nhận thức rõ hơn về chức năng, vai trò của các hiệp hội trong việc tập hợp, đoàn kết và bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của các thành viên, hội viên. Đặc biệt, việc tham gia xây dựng và giám sát, phản biện xã hội của các hiệp hội có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần tạo lập một môi trường ngày càng dân chủ, cởi mở trong đời sống chính trị xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, không thể phủ nhận sự đóng góp to lớn của các tổ chức xã hội nhằm giảm tải gánh nặng cho Nhà nước thông qua việc tham gia cung ứng các dịch vụ công, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, từ thiện, nhân đạo, bảo vệ môi trường, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, khắc phục hậu quả thiên tai…

Thứ hai, xây dựng Luật về hội bảo đảm tính hợp Hiến, tính thống nhất, đồng bộ, tính khả thi và yêu cầu hội nhập quốc tế hiện nay

Việt Nam đã phê chuẩn nhiều công ước quốc tế về quyền con người, công ước của ILO và đặc biệt việc Hiến pháp 2013 đã hiến định quyền con người và quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân đòi hỏi Dự thảo Luật về hội cân nhắc những yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, khả thi và phù hợp xu hướng, hội nhập quốc tế hiện nay. Từ kết quả tổng hợp rất nhiều ý kiến tại các cuộc tọa đàm, hội thảo, các cơ quan có thẩm quyền cần xem xét các khuyến nghị:

- Về tên gọi của Luật: Cần nghiên cứu tên của Luật để bao quát các loại hội gồm hội có hội viên và hội không có hội viên, hội có tư cách pháp nhân và hội không có tư cách pháp nhân;

- Luật về hội cần đảm bảo là văn bản pháp lý tạo lập cơ sở pháp lý rõ ràng và thuận lợi thúc đẩy sự hình thành, tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội. Sự hạn chế đối với quyền tự do lập hội là cần thiết nhằm đảm bảo sự ổn định, ngăn chặn những nguy cơ tiềm tàng của việc lạm dụng tự do lập hội. Trong trường hợp cần thiết vì một xã hội dân chủ, an ninh quốc gia hoặc an toàn, trật tự công cộng, bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội, bảo vệ các quyền và tự do của người khác, các hạn chế đối với quyền tự do lập hội cần quy định rõ trong Luật.

- Về đối tượng áp dụng: Hiện nay, cùng với việc dân chủ ngày càng mở rộng, các hội quần chúng phát triển nhanh, nhiều loại hình mang tính chất hội của người dân đã ra đời và phát triển mạnh mẽ. Do đó Luật về hội cần mở rộng phạm vi điều chỉnh đối tượng áp dụng Luật như sau:

+ Các đoàn thể chính trị - xã hội:

+ Các hội không có hội viên: bao gồm các quỹ, viện, trung tâm, các tổ chức bảo trợ xã hội mà ở nước ta thường gọi chung là tổ chức phi chính phủ hay quỹ, đáp ứng nhu cầu lập hội của công dân.

+ Các tổ chức không đăng ký pháp nhân: thực tế hiện nay rất nhiều tổ chức không pháp nhân đã được thành lập trên địa bàn cả nước (thường gọi là tổ chức cộng đồng). Các tổ chức này hoạt động có hiệu quả, không vi phạm pháp luật và chính quyền cũng không ngăn cấm. Tuy nhiên, việc xác lập tư cách pháp nhân của hội là rất quan trọng vì chỉ có các hội có tư cách pháp nhân mới có thể tham gia các giao dịch dân sự và chịu trách nhiệm pháp lý về các giao dịch đó. Vì vậy, quy định pháp luật về đăng ký pháp nhân đơn giản hơn thì sẽ khuyến khích hội đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này cũng giúp cho việc quản lý nhà nước đối với các hội tốt hơn, tránh tình trạng như hiện này, có hàng nghìn hội không đăng ký, không được công nhận vẫn đang tồn tại và hoạt động.

+ Các tổ chức phi chính phủ nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;

+ Các tổ chức hội của người nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

- Về thủ tục thành lập hội: Bảo đảm sự đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng trong việc thành lập hội. Nên áp dụng “thủ tục mang tính thông báo” (mô hình đăng ký) hơn là “thủ tục phê duyệt trước” (mô hình xin-cho) cho tất cả các loại hình hội, kể cả hội có thành viên hay hội không có thành viên (tổ chức phi chính phủ, quỹ) và để các tổ chức hội tự quyết định loại hình, cơ cấu tổ chức, phạm vi, lĩnh vực hoạt động của mình trên cơ sở quy định của pháp luật.

- Về chính sách đối với hội: Luật về hội cần đảm bảo nguyên tắc tự chủ về tài chính, tự quyết về lãnh đạo và tự chịu trách nhiệm về Điều lệ và hoạt động của hội. Nhà nước cần có cơ chế chính sách để nâng cao tính tự chủ, tự quản và phát huy vai trò của hội trong phát triển kinh tế - xã hội. Về tài chính, nếu Nhà nước có nhu cầu giao nhiệm vụ cho hội và hỗ trợ ngân sách thì cũng nên chuyển hướng theo phương thức cung ứng - sử dụng dịch vụ công theo nhiệm vụ. Nghĩa là nhà nước có thể cung cấp ngân sách theo tinh thần xã hội hóa việc cung cấp dịch vụ công trên nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng giữa các hội, theo phương thức đấu thầu, cạnh tranh bình đẳng, không phân biệt dựa trên bất cứ đặc điểm nào của hội. Cần có chính sách thuế phù hợp với từng loại nguồn thu của hội như: miễm giảm thuế đối với các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, miễn giảm thuế đối với nhà tài trợ, khi tài trợ cho các hoạt động công cộng, nhận tài trợ từ các cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước, tổ chức các hoạt động gây quỹ, kinh doanh và thu lời để phục vụ cho mục đích công cộng không phải chịu thuế; mở rộng nguồn thu của hội; để cho các hội chủ động giải quyết mối quan hệ giữa hội và doanh nghiệp, hội và nhà nước…

- Về quản lý nhà nước đối với hội: Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Chính phủ, các bộ và chính quyền địa phương trong quản lý đối với hội. Trên cơ sở đó, nghiên cứu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ vị trí việc làm, kiện toàn tổ chức làm công tác quản lý nhà nước về hội thuộc Bộ Nội vụ. Thống nhất một đầu mối quản lý, tránh chồng chéo quy định về phạm vi quản lý, khắc phục cơ chế "Bộ chủ quản" đối với hội của các bộ, ngành; giảm bớt các nội dung quản lý nhà nước đối với những hội không phải đăng ký và không có nhu cầu đăng ký, nhà nước không nên can thiệu sâu vào hoạt động, điều lệ, tổ chức của hội.

- Về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật của hội: Luật về hội cần tạo lập cơ chế thanh tra, kiểm tra việc thực hiện điều lệ của các hội đã được đại hội thông qua và cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt để kịp thời xử lý các vi phạm.

Luật về hội cần quy định rõ nếu trường hợp Điều lệ của hội vi phạm pháp luật hoặc phương hại đến quyền con người thì Nhà nước có quyền can thiệp. Hoạt động của hội vi phạm các quy định của Luật về hội và các luật khác có liên quan thì Nhà nước cũng có quyền áp dụng các chế tài thích hợp để xử lý.

- Bổ sung quy định cụ thể hơn về quyền tham gia giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức xã hội.

____________________

(1) Trong nghiên cứu này, các loại, nhóm các hội, tổ chức phi chính phủ, quỹ,... sẽ được đề cập đến theo một khái niệm chung là tổ chức xã hội (TCXH).

(2) London School of Economics, What is civil society? http://www.lse.ac.uk/collections/CCS/what_is_civil_society.htm(accessed 12.03.10)

(3) Quyết định 68/2010/QĐ-TTg ngày 1 tháng 11 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc quy định Hội có tính chất đặc thù, http://www.vietlaw.gov.vn

(4) Theo quy định của Nghị định 45/2010/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 1/7/2010, TCXH được định nghĩa "Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hỗ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan’ (Điều 2 (1)). Quy định này chỉ ra hội được hiểu ở đây là hình thức tổ chức phi chính trị và phi nhà nước, hay chính là một hình thức của TCXH.

(5) Dự thảo tờ trình Chính phủ tháng 9/2015

(6) http://moj.gov.vn/vbpq/lists/vn%20bn%20php%20lut/view_detail.aspx?itemid=1034. Truy cập 06.00 ngày 16/8/2016

Các tổ chức xã hội bao gồm những gì?

Có 5 loại tổ chức xã hội ở Việt Nam là tổ chức trính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, các tổ chức tự quản và tổ chức khác.

Các tổ chức chính trị xã hội là gì?

Tổ chức chính trị - xã hội là một trong những tổ chức xã hội góp phần vào việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đây là tổ chức mang màu sắc chính trị, đại diện cho ý chí của các tầng lớp trong xã hội trong hoạt động của bộ máy nhà nước.

Khái niệm tổ chức xã hội nghề nghiệp là gì?

Tổ chức xã hội nghề nghiệp là tập hợp tự nguyện của những cá nhân, tổ chức cùng thực hiện hoạt động xã hội nghề nghiệp, được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ các thành viên trong hoạt động nghề nghiệp và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên.

Cơ sở xã hội là gì?

Cơ cấu xã hội (tiếng Anh: social structure) là mối liên hệ vững chắc của các thành tố trong hệ thống xã hội. Các cộng đồng xã hội (dân tộc, giai cấp, nhóm xã hội,...) là những thành tố cơ bản. Về phần mình, mỗi cộng đồng xã hội lại có cơ cấu phức tạp với những tầng lớp bên trong và những mối liên hệ giữa chúng.