Dời sống văn hóa tinh thần chăm islam năm 2024

Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền trung Việt Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hóa rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỷ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chăm-pa.

Hiện tại, cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bà la môn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc,Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và Thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

Tên gọi khác: Chàm, Chiêm, Chiêm Thành, Chăm Pa, Hời…

Nhóm địa phương: Chăm Hroi, Chăm Poổng, Chà Và Ku, Chăm Châu Ðốc.

2.Dân số, ngôn ngữ:

* Dân số:

Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 1/4/2019: Tổng dân số: 178.948 người. Trong đó, nam: 87.838 người; nữ: 91.110 người. Tỷ lệ dân số sống ở khu vực nông thôn: 83,8%.

* Ngôn ngữ:

Tiếng nói thuộc nhóm ngôn ngữ Malayô-Polynéxia (ngữ hệ Nam Ðảo).

3.Phân bố địa lý

Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận.

4.Đặc điểm chính:

Thực phẩm: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

Trang phục: Nam, nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

Quan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ, mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên.

Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niee và Mlô ở dân tộc Ê-Đê. Sau này, thị tộc Cau trở thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ.

Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

Nơi ở: Người Chăm ở nhà đất (nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

Cưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu.

Ma chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế giới bên kia là thổ táng và hỏa táng. Nhóm cư dân theo đạo Bà la môn thường hỏa táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.

Lễ Tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Tuy nhiên, lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon Katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

Lịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm.

Dời sống văn hóa tinh thần chăm islam năm 2024

(Ảnh: Thành Đạt)

Nghệ thuật: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống vỗ, kèn xaranai. Nền dân ca-nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca-nhạc cổ của người Việt ở miền trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Bon katê diễn ra tại các đền tháp.

5.Điều kiện kinh tế:

Người Chăm có truyền thống nông nghiệp ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

Nghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

Về tang lễ, ma chay: Khi có người hấp hối, bà con lân cận đến để cùng đọc kinh cầu cho linh hồn người chết bình thản rời khỏi cõi đời. Khi bệnh nhân tắt thở, người nhà sẽ dùng tay thấm nước sạch vuốt mặt người chết. Thông thường, người chết được chôn trong ngày. Nếu chết buổi sáng thì chôn vào buổi chiều; nếu chết buổi tối thì sáng hôm sau chôn. Nghi thức tang lễ của người Chăm theo đạo Islam ở An Giang được thực hiện theo bốn bước sau: Thứ nhất, tắm rửa sạch sẽ; thứ hai, bó tử thi cho kín toàn thân bằng vải trắng sạch; thứ ba, mọi người khiêng tử thi để trong “Madu” (là một tấm ván có mui cong để tử thi nằm) và khiêng tử thi đem đến Thánh đường làm lễ; thứ tư, đem chôn tử thi. Buổi tối ngày chôn cất, bạn bè người thân của tang chủ đến nhà tang chủ để cầu nguyện. Việc cầu nguyện như thế sẽ diễn ra trong ba đêm liền. Sau đó, người ta còn cầu nguyện vào các đêm thứ 7, thứ 10, thứ 40, thứ 100 và một lần nữa vào đúng 1 năm kể từ lúc người mất. Một điều đặc biệt trong đám tang của cộng đồng người Chăm ở An Giang là người thân không được khóc lóc, kể lể, nếu có cảm động thì có thể rơi một ít nước mắt, tuyệt đối không thờ cúng tử thi, không lạy và cũng không đốt nhang. Nghi thức tang lễ của người Chăm thực hiện nghiêm trang, gọn gàng, chu đáo, vệ sinh, văn minh, tiết kiệm thể hiện tình làng nghĩa xóm.