Giáo án cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt

I.    Tìm hiểu chung

1.    Tác giả

a.    Cuộc đời

–    Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê gốc ở Đà Nẵng nhưng sinh tại Phú Thọ –    Sinh ra trong gia đình tri thức, cha là nhà viết kịch nổi tiếng Lưu Quang Thuận và sau này ông cũng nối nghiệp viết kịch của cha mình trở thành một cây bút kịch tài ba –    Cuộc đời Lưu Quang Vũ có những lúc thăng trầm thậm chí là tuyệt vọng –    Tình yêu chính là sự nâng đỡ tâm hồn và hạnh phúc gia đình với nữ sĩ Xuân Quỳnh đã tiếp thêm cho Lưu Quang Vũ một nguồn năng lượng mới trong sáng tác của mình

–    Lưu Quang Vũ qua đời trong khi tài năng đang độ chín, cả gia đình ông đều bị cướp đi tính mạng trong một vụ tai nạn.

–    Tác phẩm tiêu biểu của ông là: Sống mãi tuổi 17, nàng Xita, Bệnh sĩ…
->    Lưu Quang Vũ trở thành hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch, được đánh giá là một nhà soạn kịch tài năng nhất của Việt Nam.

–    Không chỉ viết kịch mà ông còn làm thơ: Hương cây, mây trắng của đời tôi.
“Có những lúc tâm hồn tôi rách nát
Như chiếc gương chẳng biết soi gì”

a.    Hoàn cảnh sáng tác: vở kịch được Lưu Quang Vũ viết vào băn 1981 công diễn lần đầu tiên năm 1984 b.    Ví trí

–    Nằm ở cảnh 7 của đoạn kịch. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch , đồng thời là lúc xung đột trung tâm được đẩy lên đỉnh điểm.

a.    Cuộc đối thoại giữa hồn và xác

–    Trong tâm trạng buồn bã đến cùng cực hồn Trương Ba thoát khỏi xác anh hàng thịt kềnh càng thô lỗ và cuộc đối thoại giữa hồn và xác diễn ra ở đây –    Hồn nêu lên những lý tưởng cuộc đời mình: •    Vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, xác chỉ là xác thịt âm u đui mù. •    Hồn phủ nhận những lý lẽ dẫn chứng mà xác đưa ra •    Hồn cho rằng đó là những ý nghĩ ti tiện không thể chấp nhận được. –    Xác cũng có những lý lẽ riêng của mình. •    Xác khẳng định hồn sẽ vô ích thôi khi không thể tách rời tôi được đâu hai ta đã hòa vào làm một. •    Xác chứng mình sức ảnh hưởng ghê gớm của mình đối với hồn, đôi khi còn lấn át cả hồn thanh cao kia. •    Xác tìm ra giải pháp rằng: hồn cứ nghĩ mình thanh cao, thánh thiện còn những điều gì xấu thì cứ đổi hết cho xác là được.

-> Sau cuộc đối thoại này hồn dần dần đuối lý và ông chấp nhận trở lại xác.

-> ý nghĩa của đoạn hội thoại ấy là Trương Ba được sống trở lại những đó là cuộc sống đáng hổ thẹn, sống chung trong cái dung tục thì chắc chắn sẽ bị nó chế ngự. Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần con và phần người. Không những thế mỗi con người phải sống cân đối giữa phần con và phần người.

b.    Cuộc hội thoại của Trương Ba với những người thân trong gia đình.

–    Hội thoại với người vợ của mình. •    Vợ Trương Ba buồn bã đau khổ vì ông đâu còn là ông nữa. Bà quyết định ra đi để nhường ông Trương Ba cho vợ anh hàng thịt. –    Cuộc hội thoại với chị con dâu. •    Hiện tại chị là người thấu hiểu ông nhất thế nhưng trước tình cảm gia đình chị vẫn không thể nói hộ ông Trương ba được. Chị nhận ra sự thay đổi không thể chấp nhận được của bố chồng. –    Hội thoại với cháu gái mình. •    Đứa cháu gái mà ông hết mực yêu thường, nó cũng yêu thường ông vô cùng nhưng kể từ ngày ông được sống lại thì nó không còn yêu thương ông nữa. •    Nó khước từ tình cảm của ông, nó khóc thảm thiết, nó không chấp nhận người ông có đôi chân to bè đã giẫm nát cây sâm quý của ông nó. Càng không chấp nhận khi ông làm gãy diều của cu Tị.

->   Trước những cuộc hối thoại ấy Trương Ba đau khổ tuyệt vong vì giờ không còn ai bên mình hiểu mình nữa, đặc biệt vì ông mà tất cả mọi người trong gia đình ai nấy cũng đau khổ. Ông thẫn thờ ngồi ôm đầu bế tắc và ông quyết định đốt hương gọi Đế Thích lên để được chết thật sự.

c.    Cuộc trò chuyện giữa hồn Trương ba và Đế Thích

–    Gặp lại Đế thích hồn Trương Ba nhất quyết khước từ mọi thứ “không bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được”. –    Lúc đầu Đế Thích hơi ngạc nhiên nhưng sau an ủi khuyên nhủ Trương Ba vì trên thế giới này chẳng cái gì tròn trịa cả. –    Đế Thích nói hồn của ông nhập vào xác thằng cụ Tị nhưng ông cũng nhất quyết không chịu. Ông đã tưởng tượng ra những cảnh tượng chớ chêu ngay sau đó. –    Cuối cùng ông đi tới một quyết định là được chết thật sự. –    Tác giả kết thúc đoạn kịch băng hình ảnh gia đình nhà ông Trương Ba lại vui vẻ như xưa, tuy ông không còn nữa nhưng ông đã bảo vệ được đời sống tâm hồn của ông một cách nguyên vẹn, hồn ông vẫn ở quanh ngồi nhà ấy.

-> Qua màn đối thoại ấy tác giả nêu lên những triết lý nhân sinh sâu sắc rằng: con người là một thể thống nhất giữa tâm hồn và thể xác vì thế cho nên không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục được. Sống thực cho ra con người không phải là điều dễ dàng. Khi sống nhờ sống chắp vá không được là mình thì cuộc sống đó thật vô nghĩa, đôi khi còn gây tai họa cho những người thân xung quanh mình và tạo cơ hội cho kẻ xấu.

III.    Tổng kết

–    Qua đây tác giả muốn khẳng định một điều răng được sống đã là điều hạnh phúc nhưng được sống là chính mình mới là cao quý. Không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Sống phải biết dung hòa giữa linh hồn và thể xác, giữa phần con và phần người.

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch tiêu biểu của Lưu Quang Vũ. Tác phẩm được học trong chương trình lớp 12.

Giáo án cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt
Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt

Hôm nay, Download.vn sẽ cung cấp Bài văn mẫu lớp 12: Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay bên dưới.

Phân tích màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt

I. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về nhà thơ Lưu Quang Vũ, tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt: Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

- Dẫn dắt để giới thiệu đến nội dung cần phân tích: Nổi bật trong tác phẩm là cuộc đối thoại của Hồn Trương Ba với xác của hàng anh hàng thịt.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh dẫn đến cuộc đối thoại của Hồn và Xác

Trương Ba giỏi đánh cờ bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho Hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Trước nguy cơ bị tha hóa, Hồn Trương Ba khao khát được tách ra khỏi xác thịt đui mù, thô lỗ.

2. Phân tích cuộc đối thoại

a. Hồn Trương Ba:

- Bộc lộ sự chán chường, sợ hãi khi phải sống trong Xác hàng thịt: “Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.

- Cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.

- Xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài: âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém.

=> Hồn Trương Ba phủ nhận vai trò của xác anh hàng thịt.

- Thái độ: Từ chối quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.

b. Xác anh hàng thịt:

- Cho rằng Hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của Hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt: (Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến, khao khat khi đứng bên vợ hàng thịt đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại; đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn mà ông cho là dung tục như tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi; đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi…).

- Thuyết phục Hồn Trương Ba chiều theo những thói quen tầm thường của mình, chấp nhận tiếp tục sống trong thân xác của mình.

- Thái độ: Từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế.

c. Ý nghĩa của cuộc đối thoại

- Cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng.

- Phê phán những kẻ nương theo lối sống dục vọng tầm thường, một mặt vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị vật chất và những nhu cầu của thể xác.

- Sau cuộc đối thoại này, Trương Ba đã nhận ra rằng được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn.

III. Kết bài

Khái quát ý nghĩa của cuộc đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt . Cảm nhận chung về tác phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 1

Lưu Quang Vũ là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Trong đó, màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt gửi gắm bài học rất giá trị.

Trương Ba là một người làm vườn chất phác, cần cù, yêu vợ, thương con. Nhưng vì thái độ làm việc tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu mà Trương Ba đang khỏe mạnh lại bị chết oan. Vì quý mến Trương Ba, Đế Thích (một vị tiên nổi tiếng cao cờ) đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác anh hàng thịt vừa mới chết được một ngày. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái: lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ... Bản thân ông cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Điều đó khiến ông cảm thấy vô cùng, đau khổ và chỉ muốn thoát khỏi xác hàng thịt ngay lập tức. Cuộc đối thoại bắt đầu khi hồn Trương Ba tách ra khỏi xác anh hàng thịt.

Lời thoại của Hồn Trương Ba ở đầu đoạn trích đã bộc lộ rõ tâm trạng vừa chán ngán, vừa sợ hãi cái thân xác mà ông đang vay mượn: “Không! Không! Tôi không muốn sống như này mãi! Tôi chán cái chỗ không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi ngay tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”. Khi nghe những lời đó, ngay lập tức, xác hàng thịt đã lên tiếng: “Vô ích, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu, dù tôi chỉ là thân xác”. Lời nói của xác hàng thịt khiến Trương Ba cảm thấy ngạc nhiên: “A, mày cũng biết nói kia à? Vô lí, mày không thể biết nói… ” và phủ nhận sức mạnh của thể xác - “không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u, đui mù”, “không có tư tưởng, không có cảm xúc”.

Xác hàng thịt đưa ra những lí lẽ để chứng minh rằng hồn không thể còn nguyên vẹn, trong sạch, khi phải chung sống và chiều theo những đòi hỏi của xác thịt dung tục. Hồn Trương Ba đã có cảm giác xao xuyến khi đứng bên vợ hàng thịt đến nỗi chân tay run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại; đã có cảm xúc lâng lâng trước các món ăn tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…; đã sử dụng vũ lực mà ông cho là tàn bạo để tát thằng con toé máu mồm, máu mũi… Không chỉ vậy, xác hàng thịt còn tiếp tục khẳng định: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông cứ vin vào cớ linh hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn để rồi bỏ bê thân xác mãi khổ sở nhếch nhác” và “làm xong điều xấu gì, ông cứ việc đổ tội cho tôi, để ông được thanh thản. Tôi biết: Cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt. Tâm hồn là thứ lắm sĩ diện”. Để rồi cuối cùng, hồn Trương Ba phải thốt lên đầy bất lực: “Lí lẽ của anh thật ti tiện”, rồi lại phải bần thần nhập vào xác.

Cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác mang ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, ở góc độ Hồn Trương Ba, ta nhận ra khát vọng sống cao thượng, thánh thiện của con người, khi bị những cám dỗ vật chất phàm tục làm cho tha hoá, biến chất. Ở góc độ Xác hàng thịt, ta nhận ra những nếp nghĩ sai lầm của con người: Đó là thói quen đề cao tinh thần mà coi thường vật chất, tự ru ngủ mình trong những giấc mơ cao thượng mà quên đi rằng, cần phải thiết lập mối quan hệ hoà hợp, gắn bó giữa chúng. Như vậy, Hồn và Xác là những ẩn dụ nghệ thuật lớn. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là một tình huống kịch đặc sắc, tô đậm bi kịch “bên ngoài một đằng, bên trong một nẻo”, sự thiếu hài hòa, không thống nhất trên các phương diện: linh hồn và thể xác, vật chất và tinh thần, nội dung và hình thức, bản năng và lý tưởng, cao cả và tầm thường… ở mỗi con người. Kết thúc cuộc đối thoại, Hồn Trương Ba dằn vặt, đau đớn, hoang mang, tuyệt vọng trở về cuộc sống trái với chính mình. Chi tiết “Hồn Trương Ba bần thần nhập lại vào Xác hàng thịt, ngồi lặng lẽ bên chõng” diễn tả cô đọng tính chất căng thẳng của xung đột kịch là mâu thuẫn không những không được giải quyết mà còn được đẩy lên đến một mức cao hơn.

Như vậy, mà đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt được Lưu Quang Vũ xây dựng thật độc đáo, gửi gắm bài học ý nghĩa.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 2

“Tôi không muốn viết những lời như thế
Tôi không thể viết những lời như thế

Tôi xé đi vòng hoa giấy bức màn sương
Những niềm vui dại khờ những nỗi buồn yếu đuối
Cuộc sống còn dở dang
Cần đóng góp không cần ngồi ca ngợi”

Lưu Quang Vũ được bạn đọc và công chúng biết đến với tư cách là một nhà thơ. Nhưng ông gây tiếng vang và được hâm mộ là một nhà viết kịch tài ba. Và với quan điểm sáng tác không phải để ca ngợi mà đơn thuần chỉ là để đóng góp cho cuộc sống còn nhiều dang dở, thông qua những tác phẩm của mình, ông đã truyền tải đến những thông điệp nhân sinh ý nghĩa. Vở kịch “Hồn Trương Ba da hàng thịt” đặc biệt là cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là tiếng nói phê phán những vấn đề tiêu cực của cuộc sống thông qua những câu chuyện trong đời sống hằng ngày và sống động. Thể hiện được góc nhìn của tác giả cũng như là những thông điệp mà ông gửi gắm.

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã để cho Hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn cấp và tha thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này. ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát.”

Như vậy, hồn đang ở trong trạng thái vô cùng bức bối và đau khổ. Những câu cảm thán và dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên được điều đó. Hồn bức bối vì không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác ghê tởm ấy, Ghê tởm vì mình không còn là chính mình nữa.Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt, hồn là thế yếu, đuối lý không thể cãi được bởi những điều xác nói dù đúng hay sai, muốn hay không hồn cũng phải thừa nhận.Đó là cái đêm khi hồn đứng cạnh vợ xác thì “tay chân run rẩy”; “hơi thở nóng rực”; “cổ nghẹn lại” và suýt nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn không thích và cho đó là “phàm”. Hồn ghê tởm lúc ông tát thằng con “tóe máu mồm máu mũi”... Tất cả đều là sự thật. Xác còn gợi tả lại một cách chi tiết những sự thật khiến cho hồn càng cảm thấy xấu hổ. Hồn đưa ra lời ngụy biện cho bản thân bằng lí lẽ: “Ta vẫn sống một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn” nhưng lại bị xác cười nhạo và khinh thường.

Trong cuộc đối thoại giữa hồn trương ba và xác hàng thịt, xác thắng thế nên hả hê cười nhạo và liên tục tuôn ra những lời cười nhạo, chê bai với những lời thoại dài với chất giọng lúc thì mỉa mai lúc thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn cùng giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than thở.

Xác khôn ngoan, biết là lỡ lời nên đã biết tìm cách biện minh cho chính mình bằng lý lẽ: “là hoàn cảnh” hay “cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ có phản ứng yếu ớt: “Nhưng… Nhưng…”. Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, xác đưa ra giao kèo nhằm thỏa hiệp để chung sống bằng giọng nhẹ nhàng, vuốt ve hồn, xác chủ động đưa ra “trò chơi tâm hồn”: “Những lúc một mình lẻ bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh, vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong một điều xấu ông cứ đổ lỗi cho tôi, để ông được thanh thản… miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi.” Nghe thấy xác nói xong, hồn nhận thấy được “lí lẽ ti tiện” của xác và thân lên một cách tuyệt vọng và bất lực: “Trời! Đã là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô vọng”.

Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác nhận rõ ràng đã hiện lên với ưu thế của kẻ nắm đầu chuôi, nắm sự thắng thế, chứng tỏ quyền uy của mình đối với hồn. Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được, cả hai phải bổ sung và hoàn thiện cho nhau. Chính vì thế cuộc đấu tranh giữa hồn và xác chính là đấu tranh giữa linh hồn - thể xác, vật chất - tinh thần, nội dung - hình thức, bản năng - lý tưởng, cao cả - tầm thường trong mỗi con người, là giữa sự cao sang giữa phần con và phần người.

Đây cũng chính là lời cảnh cáo, là thông điệp của Lưu Quang Vũ đối với bạn đọc, người xem. Khi con người sống lâu trong môi trường dung tục thì chắc chắn sẽ bị nó chi phối và ảnh hưởng. Khi con người dù có thanh cao đến đâu nhưng bị chi phối bởi những nhu cầu thiết yếu của bản năng thì chắc chắn chẳng thể đổ lỗi cho thể xác. Suy cho cùng cả hai cũng chỉ là một, có sự chi phối lẫn nhau mà thôi.

Không thể tự an ủi, xoa dịu bản thân bằng những vẻ đẹp siêu hình của của tâm hồn, chính vì thế cần phải hoàn thiện bản thân một cách toàn diện. Hoàn thiện bản thân chính là một cách để góp phần xây dựng xã hội văn minh giàu đẹp. Cuộc đấu tranh giữa hồn và xác là cuộc đấu tranh còn dài và dai trong mỗi con người ở trên thế giới này.

Thông qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, Lưu Quang Vũ gửi gắm sự cảnh báo của mình vào đó: khi con người sống trong sự dung tục thì chắc chắn dung tục sẽ ngự trị và thắng thế, dẫn con người đi vào sự tha hóa, lấn át dần những sự thanh cao, trong sạch và tốt đẹp.

Đời sống đâu chỉ gói gọn trong trong những nhu cầu thiết yếu của bản thân, mà còn rất nhiều thứ cần phải được quan tâm và dung hòa. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và thể xác là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và hoài bão với dục vọng ham muốn tầm thường, giữa tầm thường và cao cả, giữa phần con và phần người luôn diễn ra hằng ngày, hằng giờ trong mỗi con người.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 3

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một trong những vở kịch nổi tiếng vào những năm 80 của thế kỷ XX. Tác phẩm thể hiện lẽ sống của con người qua việc “ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, con người khi không thể sống là chính mình thì chính là bi kịch đau đớn nhất của con người. Qua phân tích cuộc đối thoại giữa hồn trương ba và xác hàng thịt chúng ta cũng cảm thấy, tác giả cũng phê phán lối sống giả tạo, sống nhờ và không phải là chính mình.

Trương Ba là một người đàn ông khoảng năm mươi tuổi, tính tình ngay thẳng, trung thực và rất giỏi đánh cờ. Tuy nhiên, vì sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu mà ông bị chết oan. Do thương cho kẻ hiền lại chết oan cộng với việc giỏi đánh cờ, vị Tiên cờ Đế Thích đã cho phép hồn Trương Ba được nhập vào xác ông hàng thịt vừa chết.Vậy là giờ đây, Trương Ba vẫn sống nhưng lại sống trong thân thể của một người khác. Từ đây xảy ra rất nhiều mâu thuẫn trong tâm hồn và thể xác. Tiên cờ Đế Thích nghĩ rằng đây là cách giải quyết tốt nhất, vẫn để cho một người giỏi và hiền được sống dưới nhân gian, nhưng ngài không ngờ rằng, nó lại chính là bi kịch của Trương Ba không được sống là chính mình.

Đáng buồn thay, trong chính gia đình mình ông lại bị người thân chê trách, xa lánh, coi thường. Ông bị dồn vào sự đau khổ nhất, tự mình nhận thấy sự tha hóa, con trai thì hư hỏng không thể dạy bảo, cường hào thì nhũng nhiễu… Dường như Trương Ba không thể chịu đựng được nữa, ông quyết định vùng lên và đấu tranh với thể xác phàm tục - thể xác của người bán thịt. Ông không thể sống chung với xác của ông hàng thịt, ông tách ra khỏi thân xác để tranh luận.

Cuộc tranh luận diễn ra vô cùng khốc liệt, gay cấn. Một bên là thể xác ông hàng thịt với bụi bặm, cuộc đời phong trần hay nói đúng hơn là phàm phu tục tử. Đã là người bán thịt thì khó ai mà có thể thanh cao, nhẹ nhàng, thảnh thơi chơi cờ được. Họ còn được gọi là đồ thể nếu hành nghề mổ heo. Bởi vậy cho nên thân xác này vô cùng phàm tục nhưng nó cũng có những luận điểm vô cùng sắc bén và không chịu thua hồn Trương Ba. Nó tự vỗ ngực, tự tin nói rằng vai trò, vị trí của xác rất quan trọng. Nhờ có thân xác mà linh hồn mới có nơi trú ngụ, mới cảm nhận được mùi vị cuộc sống, mới có cảm giác lâng lâng hạnh phúc hay được hưởng những món ăn ngon ở đời. Nhìn chung, thân xác chính đóng vai trò quan trọng nhất không thể chối bỏ. Thân xác còn đưa ra các luận điểm vô cùng sắc bén: “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại… Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”; “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì ? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”. Chứng tỏ, thân xác rất biết rõ vị trí và lợi thế của mình. Nó là nơi giúp cho linh hồn thể hiện các nhu cầu, cảm xúc, hỉ nộ ái ố. Không có thân xác thì linh hồn sao có thể cảm nhận được cuộc đời và sao có thể tồn tại.

Tuy nhiên, Hồn Trương Ba không chịu thua, ông phủ nhận vai trò thể xác mà khẳng định sự thanh cao của tâm hồn. Ông vốn là người có đời sống nhẹ nhàng, thanh thản, chơi cờ giỏi vì vậy sống trong thân thể phàm tục ông vô cùng tức giận và bức bối. Ông cho rằng, thân xác chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì, không có tư tưởng, cảm xúc, hoặc nếu có cũng chỉ là cái xác mà con thú nào cũng có được. Ông rất đề cao tâm hồn: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”. Hoặc nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, còn hồn “vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”

Cả hai đều có những lý luận mà không ai chịu thua ai khiến cho cuộc tranh luận khó có thể giải quyết trọn vẹn. Tuy nhiên, trước những lí lẽ giảo hoạt, ti tiện của thể xác, cuối cùng linh hồn cũng phải chịu thua. Khi thể xác chế giễu coi thường linh hồn trước những nhu cầu thể xác và đấu tranh có những nhu cầu chính đáng của mình. Nó vuốt ve linh hồn Trương Ba hãy trở về sống hòa hợp. Chứng tỏ nó nhận thấy vai trò của nó rất quan trọng, phải tồn tại thể xác thì mới là một cơ thể thực sự. Về phía hồn Trương Ba, một mặt tức tối trước những lí lẽ của xác hàng thịt, nhưng cũng rất lúng túng bối rối trước những luận điểm của xác hàng thịt và không thể phản bác. Cuối cùng, hồn Trương Ba cũng phải chấp nhận trở lại xác hàng thịt và sống trong nỗi khổ, tuyệt vọng.

Cuộc hội thoại của hồn Trương Ba và xác hàng thịt mang nhiều ý nghĩa ẩn dụ. Một bên đại diện cho khát vọng trong sạch, khát vọng sống thanh cao, còn một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh vấn đề mang tính triết lí, thể hiện khát khao sống ngay thẳng, trong sạch, là tiếng nói từ tầm hồn, bản chất sâu thẳm của con người. Hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là vấn đề trong một con người. Con người đều có hai vấn đề đó là khát vọng sống đẹp và sự dung tục. Qua đây tác giả cũng cảnh báo: Khi con người phải sống trong sự dung tục, nếu không đấu tranh mạnh mẽ sẽ bị sự dung tục chiếm lĩnh và át đi những gì trong sạch và đẹp đẽ nhất bên trong con người. Đồng thời cũng nhấn mạnh, tâm hồn và thể xác là hai thể thống nhất bên ngoài và bên trong. Vì vậy, con người sống chỉ có ý nghĩa khi là chính mình, khi được dung hòa giữa nhu cầu vật chất và tinh thần. Nếu chỉ chạy theo những dục vọng tầm thường thì con người tự hạ thấp mình và sống lối sống dục vọng, bản năng. Vậy thì cuộc sống đâu có thể phát triển được.

Có thể nói, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lên một cốt truyện vô cùng độc đáo, thú vị và mang nhiều ý nghĩa sâu xa. Bên ngoài nhìn vào là cuộc đối thoại giữa hai con người khác nhau nhưng thực chất là cuộc đối thoại giữa linh hồn trong sạch và thể xác dung tục. Qua đây ông cũng gửi gắm tư tưởng, con người cần là một sự thống nhất, đề cao khát vọng sống thanh cao, sống đẹp, con người chỉ có thể là chính mình thì mới không có bi kịch cuộc đời. Dù là thể xác hay tâm hồn cũng đều rất quan trọng, không có phần nào tốt hơn phần nào,bởi vì thiếu đi một trong hai thứ đều khó có thể tồn tại được. Do đó, hãy sống dung hòa, sống chân thành, sống tốt với nhau.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 4

Sinh ra trong thời kỳ lịch sử nhiều biến động, động lực xui khiến Lưu Quang Vũ làm thơ, sáng tác kịch chính là “muốn được tham dự và dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và dâng hiến”. Với bản lĩnh của một người cầm bút luôn khao khát được là mình, viết những gì trái tim mình đau nhói, Lưu Quang Vũ không ngần ngại lách sâu ngòi bút vào hiện thực để phản ánh những vấn đề thời sự mang ý nghĩa triết lí và có tầm phổ quát. Qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt, tác giả đã ngầm gửi gắm những thông điệp hết sức sâu sắc về mối quan hệ giữa hồn và xác.

Do sự tắc trách của Nam Tào và Bắc Đẩu mà Trương Ba phải chết oan, Đế Thích đã giúp Trương Ba sống lại bằng cách nhập hồn ông vào xác hàng thịt. Thế nhưng, điều đó lại vô tình đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khác khi linh hồn mình phải trú nhờ thân xác người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác hàng thịt: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!”. Lời thoại của hồn là các câu cảm thán ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt đến cùng cực, không thể chịu đựng sự dày vò hơn được nữa. Nghe hồn tự độc thoại, xác lên tiếng ngay: “Ông không tách ra khỏi tôi được đâu”. Trong khi hồn vừa phủ định vừa khinh miệt, cho rằng xác thịt “không có tiếng nói” mà chỉ là “cái vỏ bên ngoài” không có tư tưởng, không có cảm xúc, xác khẳng định lại vị trí và tác động của mình: “Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”. Sau những lời khinh miệt của xác, hồn lại tiếp tục châm chọc: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại”. Với bằng chứng cụ thể, hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở của mày”. Nếu như hồn liên tục chối bỏ thì xác lại ngang nhiên thừa nhận Trương Ba cũng đầy thú tính, có những nhu cầu thân xác và hưởng lạc. Từng bước, xác dẫn dắt hòn vào sự thật không thể phủ nhận: hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Lúc này, lời thoại của hồn ngập ngừng như bị hụt hơi: “Ta... ta đã bảo mày im đi”. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của thân xác. Xác nhấn mạnh vào sự thật mà hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên đến cao trào. Hồn chỉ còn cố gắng biện minh, chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Xác còn dừng những lời lẽ sắc lẹm để vạch trần nỗi đau đang tấy mủ trong hồn. Đó là nhờ sức mạnh của xác mà hồn có thể “tát thằng con tóe máu mồm máu mũi”. Biết hồn đã bị dồn vào thế bí, xác ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, dụ hồn vào “trò chơi tâm hồn”. Đến lúc này, hồn tuyệt vọng chỉ còn biết than trời bất lực.

Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: một bên đại diện cho sự trong sạch, khát vọng sống thanh cao và một bên là sự tầm thường, dung tục. Nội dung cuộc đối thoại xoay quanh một vấn đề giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt đang tồn tại trong một con người, từ đó nói lên khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức, chiến thắng bản thân. Không chỉ thế, tác giả còn cảnh báo: khi con người phải sống trong sự dung tục, tầm thường thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, thắng thế và lấn át, tàn phá những gì trong sạch, đẹp đẽ bên trong con người.

Qua màn đối thoại giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ cũng gửi gắm những quan niệm mới mẻ về con người: con người là một thể thống nhất giữa hồn và xác, bên ngoài và bên trong, cái cao cả và cái trần thế. Vì thế, cuộc sống con người chỉ có ý nghĩa nếu dung hòa được giữa đời sống vật chất và tinh thần. Nếu đề cao tinh thần mà phủ định những nhu cầu bản năng là phi nhân bản, phản nhân văn. Còn khi chỉ chạy theo những dung vọng tầm thường, con người sẽ tự hạ thấp mình xuống lối sống dung tục, bản năng.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 5

Lưu Quang Vũ là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của văn nghệ Việt Nam hiện đại. Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt là tác phẩm gây tiếng vang nhất của Lưu Quang Vũ, được tác giả hoàn thành năm 1984, công diễn lần đầu năm 1987. Đoạn trích thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch, đặt vấn đề về lẽ sống con người qua nỗi khổ bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, qua mâu thuẫn cực độ giữa hồn và xác, vở kịch chứa đựng những vấn đề triết lí nhân sinh: sống nhờ, sống giả, sống không phải là mình, đó là bi kịch lớn nhất của một con người. Để chuyển tải triết lý nhân sinh cao cả ấy, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lên cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt mang đầy tính ẩn dụ sâu sắc.

Ông Trương Ba là một người làm vườn, khoảng 50 tuổi, sống trung thực, ngay thẳng và giỏi đánh cờ. Tính tình ông nhân hậu, sống chan hòa với mọi người. Chỉ vì do sự cẩu thả và tắc trách của Nam Tào, Bắc Đẩu trên thiên đình mà ông Trương Ba phải chết oan. Tiên cờ Đế Thích bực bội và vì tiếc một người có tài chơi cờ nên đã hóa phép cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt vừa mới chết một ngày. Hồn Trương Ba từ đó sống trong thân xác của anh hàng thịt. Ai cũng ngỡ đó là cách giải quyết thuận lợi cho Trương Ba, để cho con người hiền lành này tiếp tục sống êm ấm trong gia đình mình. Nhưng trớ trêu thay, chính sự tái sinh trong xác người khác lại là điều bất hạnh của Trương Ba. Trong chính gia đình mình, ông bị người thân chê trách, xa lánh và coi thường. Hồn Trương Ba bị dồn vào sự đau khổ nhất: tự mình ý thức được sự tha hóa của mình, bị cường hào nhũng nhiễu, nhìn thấy con trai hư hỏng mà không dạy dỗ được... Tất cả những điều đó đã khiến ông không thể chịu đựng được nữa, không thể khuất phục trước thể xác, trước những cái xấu xa và tự đánh mất mình. Hồn Trương Ba không thể sống chung với xác anh hàng thịt, tách ra khỏi thân xác để tranh luận.

Cuộc tranh luận giữa một bên là hồn, một bên là xác diễn ra rất dữ dội và không có sự thỏa hiệp. Xác hàng thịt tỏ ra lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba thấy đau khổ đến cực độ và thấy không thể chịu đựng được hơn nữa. Xác hàng thịt muốn khẳng định, vị trí, vai trò và tầm quan trọng của mình: Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, người thân... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi... Xác tìm cách thỏa hiệp bằng cách nêu cụ thể những nhu cầu tự nhiên mang tính bản năng của con người: “Khi ông ở bên nhà tôi... Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng nực, cổ nghẹn lại... Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”; “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì ? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”. Còn hồn Trương Ba lại phủ nhận vai trò của thể xác mà khẳng định sự thanh sạch của tâm hồn khác xa với những thủ tục thấp hèn khác: “Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”. Lí lẽ của đôi bên đưa ra có những điểm đúng đắn khó bề bác bỏ khiến việc thắng bại không thể nào giải quyết được một cách nhanh chóng, đơn giản.

Do phải sống nhờ thể xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số nhu cầu hiển nhiên của thể xác. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương Ba dần bị nhiễm những thứ tầm thường của xác anh hàng thịt. Ý thức được điều đó, linh hồn Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt để tồn tại độc lập, không lệ thuộc vào thể xác. Xác hàng thịt biết rõ những cố gắng đó là vô ích nên đã cười nhạo hồn Trương Ba, tuyên bố về sức mạnh âm u, đui mù ghê gớm của mình, ve vãn hồn Trương Ba thỏa hiệp với mình vì theo xác hàng thịt thì chẳng còn cách nào khác, cả hai đã hòa vào nhau làm một rồi. Trước những lí lẽ ti tiện của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã nổi giận, đã khinh bỉ, mắng mỏ xác hèn hạ nhưng đồng thời cũng ngậm ngùi thấm thía nghịch cảnh mà mình đang lâm vào, đành nhập trở lại xác thịt trong tuyệt vọng.

Xây dựng hai nhân vật đặc biệt này, Lưu Quang Vũ đã sử dụng biện pháp đối lập để tô đậm sự khác nhau cơ bản giữa hồn người này và xác người kia. Ông Trương Ba vốn là một người làm vườn chất phác, hiền lành, nho nhã. Hồn của Trương Ba biểu tượng cho sự thanh nhã, cao khiết, trong sạch, đạo đức. Hồn là phần chân chính của mỗi con người. Ngược lại, anh hàng thịt với thân xác vạm vỡ, kềnh càng, thô lỗ,... biểu tượng cho bản năng, cho những ham muốn trần tục. Đây thực ra là một ẩn dụ, xác anh hàng thịt ẩn dụ về thể xác con người, còn hồn Trương Ba ẩn dụ về linh hồn của con người. Tác giả đã sáng tạo ra một tình huống ẩn dụ có sức lôi cuốn, gợi cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc: con người không thể sống không là mình, không thể sống giả dối hay vay mượn cuộc sống của người khác. Con người không chỉ sống bằng thể xác và còn phải sống bằng linh hồn, tình cảm... Độ vênh của linh hồn và thể xác sẽ là bi kịch.

Cuộc đối thoại giữa hồn và xác chính là xung đột diễn ra trong bản thân nhân vật, hai phần trong một con người. Giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba có sự đối lập giữa nhiều yếu tố như tốt - xấu, thanh cao - phàm tục, bản năng - lý trí... Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn khẳng định: không gì hạnh phúc bằng khi được sống đúng là mình, sống với những gì mình đã có. Như thế cuộc đời sẽ thanh thản, nhẹ nhàng và ý nghĩa biết bao. Cuộc sống thật đáng quý nhưng không phải sống thế nào cũng được. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được trở về đúng bản chất của mình, được sống trong một cơ thể thống nhất.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 6

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là một vở kịch nổi tiếng của Lưu Quang Vũ. Nổi bật trong tác phẩm là cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt.

Trọng tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba. Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa “Hồn Trương Ba” và “Da hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh giữa hai linh hồn trong một thân xác”.

Sau mấy tháng sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với những người thân trong gia đình và tự xung đột với bản thân mình. Hồn ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy trào ra thành dòng độc thoại đầy nước mắt: “không, không, tôi không muốn sống như thế này nữa. Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi. Ta bắt đầu sợ mi, muốn rời xa cái thân thể kềnh càng thô lỗ ngay tức khắc”.

Bước vào đến cảnh, hình ảnh Trương Ba hiện lên của một con người đang ngồi “ôm đầu” đã cho người đọc thấy hình ảnh của một con người cô độc hiện lên trước màn ảnh đầy sự đau khổ xâm lấn lại kết hợp với từ phủ định: “Không… không…” bằng một giọng điệu dứt khoát một lời độc thoại đầy khẩn thiết khẳng định việc muốn rời bỏ thân xác anh hàng thịt. “Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi lắm rồi” đầy chán nản, ngán ngẩm Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Lời thoại của Hồn là các câu cảm thán, ngắn, lời văn dồn dập, hối thúc. Thể hiện tâm trạng căng thẳng, bức bách đau khổ, dằn vặt, quẫn bách đến cùng cực, không thể chịu đựng dày vò hơn được nữa nên vụt đứng dậy. Hồn đau khổ bởi mình không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng Nghe Hồn tự độc thoại nói, và đang tự dày vò mình Xác lên tiếng ngay: “Vô ích” chính xác đã chủ động khiêu chiến chiến nhằm dập tắt hoàn toàn khát khao của Trương Ba: “ông không tách ra khỏi tôi được đâu”.

Đang trong sự bế tắc vô vọng ấy Trương ba chợt nghe thấy những lời nói từ xác chỉ biết đáp lại bằng chính sự kinh ngạc vốn có của mình: “A, mày cũng biết nói kia à?” Trương Ba ngạc nhiên, trả lời lại bằng cách đưa ra một câu hỏi sau đó liên tục phản đối xác giọng vẫn còn khinh bỉ. Cách xưng hô mày ta thể hiện rõ sự khinh bỉ, miệt thị đối với xác “Vô lý! Mày không thể biết nói! Mày không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u đui mù..” Ban đầu buông ra những lời nói mạt xác.Thấy Hồn vừa phủ định vừa khinh miệt mình, Xác khẳng định lại vị trí và tác động, suy nghĩ của mình: “Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến” và “sức mạnh ghê gớm, lấn át cả linh hồn cao khiết”. Hồn tiếp tục phủ định tiếng nói của Xác: “Mày chỉ là vỏ bề ngoài, không có ý nghĩa gì hết, không có tư tưởng, không có cảm xúc”.

Nghe thấy hồn đánh giá mình thấp kém, xác hỏi lại đầy thách thức, giọng thay đổi linh hoạt đầy châm chọc “Có thật thế không?”. Câu hỏi của Xác khiến cho Hồn chùn bước và đuối lý, buộc phải dần nhượng bộ, xác nhận sự ảnh hưởng của Xác: “nếu có, thì chỉ là những thứ thấp kém, mà bất cứ con thú nào cũng có được: thèm ăn ngon, thèm rượu thịt…”

Lại bị hồn tiếp tục khinh miệt, xác nhận thức sự lợi lí của mình, nên chuyển sang châm chọc, mỉa mai: “Khi ông ở bên nhà tôi… Khi ông đứng bên cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại… Đêm hôm đó, suýt nữa thì…”. Với bằng chứng cụ thể, hồn xấu hổ và kiên quyết phủ định: “là mày chứ, chân tay mày, hơi thở mày”. Xác vừa khẳng định vừa hỏi xoáy lại để tấn công tiếp: “Thì tôi có ghen đâu! Ai lại đi ghen với chính thân thể mình… nhưng ta nên thành thực: Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Để thỏa mãn tôi, chẳng nhẽ ông không tham dự chút đỉnh gì?”. Như vậy xác dẫn dắt hồn vào sự thật không thể phủ nhận - hồn ít nhiều đã bị vấy bẩn, tha hóa bởi dục vọng của thân xác. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến hồn càng thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện. Lí lẽ của xác khơi trúng điểm đen mà lâu nay vì trú ngụ trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba trong khiết đã bị hóa màu. Hồn đuối lý bất lực bèn la to, ra lệnh áp chế thể xác để che giấu sự lúng túng, bối rối, do dự, yếu thế của mình “Ta…ta… đã bảo là mày im đi!”. Lời thoại của Hồn ngập ngừng lí lẽ như bị hụt hơi. Hồn bị dồn vào chân tường để buộc phải công nhận sự chế ngự của xác. Xác khẳng định một lần nữa: “Hai ta đã hòa làm một rồi”. Xác nhấn vào sự thật đau đớn mà Hồn đang muốn trốn chạy, muốn phủ nhận, đẩy tình huống kịch lên cao trào. Hồn chỉ còn Cố gắng biện minh chống chế cứu vãn: “Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn…”. Xác vẫn không buông tha, tấn công bằng sự mỉa mai: “Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Trước sự thực không sao chối cãi, Hồn phản ứng tiêu cự bằng cách “bịt tai lại”. Đó là nỗ lực chối bỏ trong tuyệt vọng hoàn toàn bế tắc. Xác tiếp tục dùng lời lẽ hiểm hóc sắc lẹm như dao mổ, phanh trần nỗi đau đang tấy mủ trong hồn. Đó là nhờ sức mạnh của xác mà hồn có thể: “tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi”. Mặc dù cố bịt tai, nhưng khi nghe xác nói như vậy hồn phải lên tiếng chối bỏ “sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo”. Xác khôn ngoan biết là lỡ lời nên biện minh cho mình bằng những lí lẽ: “là hoàn cảnh” “cũng đáng được quý trọng”, không có tội. Hồn chỉ còn phản ứng yếu ớt: “Nhưng… Nhưng”. Nhận biết Hồn bị dồn vào thế bí, xác đưa ra giao kèo thỏa hiệp để chung sống, giọng ve vuốt mơn trớn xác chủ động đưa trò chơi tâm hồn: “Những lúc một mình một bóng, ông cứ việc nghĩ rằng ông có một tâm hồn bên trong cao khiết, chẳng qua vì hoàn cảnh vì để sống mà ông phải nhân nhượng tôi. Làm xong điều xấu ông cứ việc đổ tội cho tôi, để cho ông được thanh thản …miễn là… ông vẫn làm đủ mọi việc thỏa mãn những thèm khát của tôi: Xác sẽ “ve vuốt” hồn bằng cách thông cảm với “những trò chơi tâm hồn”, nhận hết mọi điều xấu miễn là hồn vẫn “làm đủ mọi việc để thỏa mãn thèm khát” của xác. Nhận thức “lí lẽ ti tiện” của xác, hồn than như là tuyệt vọng, bất lực: “Trời!” đã là một sự chấp nhận số phận trong nỗi đau đớn khôn cùng muốn tìm đường thoát nhưng hoàn toàn vô vọng.

Trong cuộc đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Quan cuộc đối thoại giữa hồn và xác, xác rõ ràng hiện lên với ưu thế của kẻ nắm giữ sự thắng thế, chứng tỏ được uy quyền chi phối khủng khiếp của nó với linh hồn, nó cũng cho thấy sự ngộ nhận về chính mình khi hồn cho rằng: “Ta vẫn có một đời sống riêng trong sạch, nguyên vặn, thẳng thắn…” Linh hồn và thể xác vốn không tách rời được nhau, cuộc tranh đấu giữ hồn và xác là cuộc đấu tranh giữ cao cả và dục vọng, thấp hèn; giữa phần con và phần người. Đó chính là lời cảnh cáo sâu xa của Lưu Quang Vũ: Khi con người sống quá lâu trong môi trường dung tục ắt sẽ bị cái dung tục chi phối, không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thể xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng thì đừng đổ tội cho thân xác. Không thể tự an ủi mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn, do đó phải bảo vệ, hoàn thiện nhân cách con người đó là một vấn đề lớn đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Đố sẽ là cuộc đấu tranh dai dẳng khi mà con người vẫn còn tồn tại trong xã hội này.

Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt được Lưu Quang Vũ xây dựng đã để lại bài học giá trị.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 7

Qua đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác anh hàng thịt, nhà văn Lưu Quang Vũ cũng đã phát biểu quan điểm của mình về giá trị và mối quan hệ giữa phần hồn và phần xác của con người: “Con người liệu có thể giữ cho mình những giá trị tinh thần cao quý khi phải chấp nhận sống chung với sự dung tục, có tránh được sự tha hóa khi phải thường xuyên thỏa mãn những ham muốn vật chất tầm thường?”

Sau những nhầm lẫn và sửa sai oái oăm của người thiên đình, để có thể tiếp tục được sống, hồn Trương Ba phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt, đó là nghịch cảnh trái tự nhiên mà hồn Trương Ba buộc phải chấp nhận, quy phục. Phải sống nhờ vào những yếu tố vật chất bên ngoài, không được sống với con người thực của mình, hoàn toàn phụ thuộc vào hoàn cảnh sống dung tục, bị nó chi phối, sai khiến – đó là bi kịch đau đớn nhất của con người. Hoàn cảnh bi kịch của Trương Ba với sức mạnh ghê gớm, sự cám dỗ khó lòng cưỡng lại của cái dung tục, tầm thường đã được cụ thể hóa trong thân xác anh hàng thịt.

Lúc vừa được sống lại trong xác hàng thịt, hồn Trương Ba hốt hoảng khi soi gương : Không! Không phải tôi. Cái mặt của tôi đâu rồi? Chân tay của tôi đâu rồi? Người này không phải là tôi. Nhưng rồi, để được sống, Trương Ba đành chấp nhận. Chấp nhận cả những đổi thay đến lệch lạc, chấp nhận sự trói buộc của hoàn cảnh, chấp nhận bị xê dịch đến cuộc sống tầm thường không mong muốn.

Không lâu sau khi trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, ở Trương Ba diễn ra sự tha hóa nhanh chóng. Sự tha hóa của Trương Ba không chỉ dừng lại ở những hành động phụ thuộc vào xác hàng thịt nữa, ngay cả linh hồn Trương Ba cũng thay đổi, từ cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử và cả cách dạy con,…

Xác hàng thịt đã chỉ rõ sự tha hóa không tránh khỏi của hồn Trương Ba khi phải nhờ vào nó để tồn tại: Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân,…Ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi. Khi phải chấp nhận hoàn cảnh trớ trêu để tiếp tục duy trì sự sống, Trương Ba hầu như không còn được sống theo cách riêng của mình, tồn tại qua thân xác không phải của mình.

Vợ Trương Ba nhận thấy sự thay đổi của chồng mình: Giờ mỗi bữa ông ăn tám, chín bát cơm, lại còn hay đòi uống rượu. Khi xưa, Trương Ba đối với ai cũng điềm đạm, nhẹ nhàng, và đặc biệt là không đánh con bao giờ. Nhưng nay, trước những lời nói sự thật của anh con trai, Trương Ba đã tát mạnh nó đến chảy máu.

Với bàn tay giết lợn lúc chiết cây cam hồn Trương Ba đã làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm, lúc sửa diều cho cu Tị thì làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý. Cái Gái gọi ông là lão đồ tể, thấy ông xấu lắm, ác lắm, và xua đuổi ông như một tội đồ, Cút đi! Lão đồ tể cút đi!

Bác Trưởng Hoạt, một người bạn cờ rất mến mộ Trương Ba cũng phải nói lời thành thực: Lúc nào bác cũng sặc sụa hơi men(…) Bác đâm nát rượu mất rồi! Những thói xấu thường ngày nó làm hư hại tâm hồn, trí não của người ta bác ạ!. Trong lúc đánh cờ Trưởng Hoạt phải thốt lên: Người đàng hoàng không ai đòi ăn nước ấy!… Lối đánh của bác khác hẳn ngày xưa. Thoạt trông thì thấy cách vào cờ của bác vẫn như xưa, nhưng sau thì… Chẳng còn cái khoáng hoạt, dũng mãnh thâm sâu ngày trước. Cách tiến, cách thủ của bác bây giờ vụn vặt, nhỏ mủn thô phũ. Mà cái nước ăn vừa rồi nói xin lỗi bác, nó bần tiện làm sao!

Bi kịch đau khổ của Trương Ba được thể hiện qua sự bối rối, khổ sở, bế tắc và sự đắc thắng bởi những lí lẽ trâng tráo nhưng đầy thuyết phục của xác hàng thịt. Đấy là nguyên nhân khiến linh hồn Trương Ba rơi vào tình trạng bất lực trước sự sai khiến ghê gớm của thân xác.

Phải để linh hồn trong sạch, cao khiết của mình sống nhờ trong thân xác thô phàm của anh hàng thịt, ý thức sâu sắc mình đang bị đồng hóa, hồn Trương Ba càng thấy không thể chấp nhận kiểu sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Cách duy nhất giúp Trương Ba thoát khỏi bi kịch là từ bỏ xác: “Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!”

Ý kiến đặt ra vấn đề nhân sinh mang ý nghĩa lớn lao mà Lưu Quang Vũ gửi gắm qua đoạn thoại: Con người liệu có thể giữ cho mình những giá trị tinh thần cao quý khi chấp nhận sống chung với sự dung tục, có tránh được sự tha hóa khi thường? Trương Ba có được cuộc sống nhưng đấy là một cuộc sống đáng xấu hổ vì phải sống nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt, bị nó chi phối, đồng hóa thậm chí lôi kéo, thỏa hiệp trong cách sống giả dối với mình, với người.

Phải trú nhờ trong thân xác hàng thịt, mặc dù một mực khẳng định Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, nhưng rõ ràng như lời của xác hàng thịt đã nói: Tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục . Sự quy phục đó đã làm cho hồn Trương Ba trở nên khác lạ trong mắt mọi người. Từ sự thay đổi tất yếu đó nhà viết kịch lưu Quang Vũ muốn gửi gắm triết lí sâu xa: Linh hồn và thể xác là hai phương diện tồn tại trong mỗi con người. Có thể nào sống mà không cần đến dáng hình, thân thể? Nhưng có lẽ nào đời sống của con người chỉ thu gọn lại trong những nhu cầu thuần túy bản năng? Đừng bỏ bê thân xác để chỉ biết đến một thứ linh hồn chung chung trừu tượng không thuộc về một ai trên cõi thế gian này. Cũng đừng chạy theo những khát thèm của thân xác mà trở về với hồng hoang nguyên thủy. Cuộc đấu tranh giữa linh hồn và xác thịt chính là cuộc đấu tranh giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng, giữa phần người và phần con trong mỗi con người.

Nếu trong tích truyện dân gian, được sống là niềm hạnh phúc lớn lao, nên mặc dù mang thân anh hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn sống cuộc sống vui vẻ, thì trong vở kịch của Lưu Quang Vũ, phải trú nhờ vào thân xác thô kệch của anh hàng thịt lại là một nghịch cảnh phi lý, trái tự nhiên, là hoàn cảnh trớ trêu mà hồn Trương Ba buộc phải chấp nhận, quy phục. Đây chính là mấu chốt của tấn bi kịch mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Trước sự thay đổi của chính mình, trước những suy nghĩ của mọi người về mình, hồn Trương Ba vô cùng đau khổ. Rất nhiều lần trong kịch bản Lưu Quang Vũ đã miêu tả vẻ mặt đầy tâm trạng của hồn Trương Ba: buồn rầu, khổ sở, khó chịu, bịt tai lại, như tuyệt vọng, thẫn thờ, ngồi xuống tay ôm đầu, mặt lặng như tảng đá… Điều đó có nghĩa là hồn Trương Ba đã ý thức sâu sắc được tấn bi kịch của đời mình, cảm thấy đau đớn, bàng hoàng, bế tắc khi nhận ra thể xác đang xâm chiếm, đang lấn lướt linh hồn, đang tha hóa cái linh hồn ấy. Tiếng nói, tiếng cười đắc thắng, hợm hĩnh của xác đang vang vọng đâu đây, cái linh hồn mờ nhạt của ông Trương Ba khốn khổ kia ơi, ông không tách ra khỏi tôi được đâu… Và rồi, một sự vỡ lẽ, vừa bàng hoàng, vừa chua chát đã dẫn đến quyết định dứt khoát, đẩy tình huống vào độ căng thẳng, quyết liệt hơn: Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? ; Chẳng còn cách nào khác! mày nói như thế hả? Nhưng có thật là không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!. Những câu độc thoại nội tâm đã phơi trải cơn bão tố dữ dội và đau đớn trong cuộc đấu tranh giành giật lại bản thân mình từ bàn tay thô bạo của con quỷ dữ bản năng ở nhân vật Trương Ba. Tất cả đã dẫn đến hành động: Đứng dậy, lập cập, nhưng quả quyết thắp hương, châm lửa gọi Đế Thích.

Gặp người nhà trời, hồn Trương Ba quyết định không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, bởi không thể bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn. Ông đã từ chối cuộc sống khi Đế Thích cho được nhập vào xác cu Tị. Ông cũng vượt lên nỗi ám ảnh về sự hư vô đáng sợ của cái chết khi Đế Thích cho biết ra khỏi thân xác, hồn chẳng còn là gì nữa… ông sẽ không còn lại một chút gì nữa, không được tham dự vào bất cứ nỗi vui buồn gì! Vượt lên tất cả, hồn Trương Ba chấp nhận tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn.

Giống như tất cả mọi người trong cuộc đời này, Trương Ba cũng ham sống, ông càng khao khát được sống bên những người ông yêu thương và cũng rất yêu thương ông. Nhưng khi trải qua bi kịch hồn Trương Ba da hàng thịt, khi phải đối diện với bi kịch của một cuộc sống không phải của mình, Trương Ba khẳng định chua xót và thấm thía: Sống thế này, còn khổ hơn là cái chết. Với một người nhân hậu như Trương ba, ông còn day dứt vì sự sống vay mượn, giả tạo của mình đã đem đến bao đau khổ cho người thân, khiến gia đình như sắp tan hoang ra cả…Đó là những cái giá quá đắt cho cả Trương Ba và gia đình ông, cái giá mà ông không thể trả dù là cho sự sống quí giá của chính mình.

Quyết định xóa bỏ sự tồn tại của cái vật quái gở mang tên hồn Trương Ba, da hàng thịt, đó là một sự lựa chọn dũng cảm của hồn Trương Ba. Chấp nhận cái chết, chấp nhận sự hư vô để được là tôi trọn vẹn, đó là kết quả của sự đấu tranh ở một tâm hồn thanh cao, trong sáng, vượt lên nghịch cảnh. Chấp nhận cái chết, Trương Ba đã tìm lại được sự trong sạch cho linh hồn mình. Được hóa thân vào các vật bình dị, gần gũi, thân thương, tồn tại vĩnh viễn trong kí ức và tình yêu của người thân, khúc vĩ thanh ở phần kết vở kịch đã thổi vào lòng người ta một làn gió nhẹ mang âm hưởng lạc quan: niềm tin vào sự chiến thắng cuối cùng của cái Đẹp, cái Thiện.

Đề cao phần linh hồn của con người, đó là điểm gặp gỡ, qui tụ của quan niệm dân gian và triết lý về mối quan hệ giữa hồn và xác của nhà viết kịch hậu hiện đại Lưu Quang Vũ trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Tất nhiên điểm sáng tạo mới mẻ của Lưu Quang Vũ là từ một tích truyện dân gian, tác giả đã đi sâu khai thác mâu thuẫn kịch từ mối quan hệ giữa hồn và xác để gửi gắm thông điệp mang tính triết lí sâu sắc: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Bi kịch Trương Ba là lời cảnh báo về những tác động tiêu cực của hoàn cảnh sống đối với con người – khi con người phải sống trong sự dung tục thì sớm muộn, cái dung tục cũng sẽ ngự trị, thắng thế, lấn át và hủy hoại những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người.

Xung đột giữa tâm hồn thanh cao của Trương Ba với thể xác phàm tục của anh hàng thịt đã khắc họa bi kịch tha hoá và cuộc đấu tranh gay gắt bảo vệ, hoàn thiện nhân cách của con người. Từ đó tác giả đã phê phán một số hiện tượng tiêu cực trong xã hội và gửi gắm triết lý nhân sinh sâu sắc về yêu cầu thống nhất giữa thể xác và tâm hồn.

Màn đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt - Mẫu 8

Lưu Quang Vũ là được mệnh danh là “cây bút vàng” của sân khấu Việt Nam những năm 80 của thế kỷ XX. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được viết năm 1981, và là vở kịch nói đầu tiên mang ra nước ngoài công diễn. Bằng ngòi bút giàu chất triết lý, Lưu Quang Vũ đã thổi vào tích xưa một luồng gió mới. Điều đó đã được thể hiện qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt.

Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết: “Không, không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là của tôi lắm rồi! Cái thân kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn ta có hình thù riêng nhỏ, để nó tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát”. Rõ ràng hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải c hồn đã nói lên điều đó. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn ghê tởm không còn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn chăm chỉ, hết lòng thương yêu vợ con quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng thấy rõ điều đó qua các đối thoại và hồn Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.

Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí, bởi xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn thì hồn vẫn phải thừa nhận. Đó là cái đêm khi ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với "tay chân run rẩy", "hơi thở nóng rực", "cố nghẹn lại" và "suýt nữa thì...". Đó là cái lần ông tát thằng con ông "tóe máu mồm máu mũi"... Tất cả đều là sự thật. Xác anh hàng thịt gợi lại tất cả sự thật ấy khiến hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy mình ti tiện.

Qua đó ta thấy được hàm ý mà tác giả muốn gửi gắm: Hình ảnh của Trương Ba và Xác hàng thịt tác giả muốn để lại một ý nghĩa giáo dục sâu sắc không nên hoán đổi thể xác và trú ngụ vào những nơi không phải là của mình. Cuộc hội thoại trên chỉ làm tăng ý nghĩa của tác giả qua bài viết, tâm hồn của mình không thể bị hoán đổi cho người khác. Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là minh, sống trọn vẹn với những gì mình có và theo đuổi nó còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác lẫn tâm hồn. Con người cần phải biết đấu tranh với nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở bi kịch đặc sắc trên nhiều phương diện. Sự kết hợp giữa nội dung hiện thực với yếu tố kì ảo, nghệ thuật tạo tình huống và dẫn dắt xung đột kịch, sắc thái đa dạng của lời thoại khiến cho tâm lí nhân vật được phơi trải, sát với đặc trưng thể loại, ngôn ngữ kịch giàu chất triết lí, giọng điệu tranh biện độc đáo.