Hiện vật đánh bạc là gì

Trước đây, BLHS 1999 [sửa đổi, bổ sung năm 2009] quy định tội Đánh bạc tại Điều 248 như sau:

“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội phạm quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không gia giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.”.

BLHS 2015 quy định tội “Đánh bạc” tại Điều 321 như sau:

“1 Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.”.

Về cấu thành tội phạm “Đánh bạc”, Điều 321 BLHS 2015 đã có sự thay đổi so với BLHS 1999, cụ thể là thay đổi mức định lượng từ 2.000.000 đồng thành 5.000.000 đồng và bổ sung tình tiết “đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này”. Điều này là phù hợp với thực tiễn đấu tranh tội phạm vì trước đây các đối tượng có hành vi đánh bạc dưới 2.000.000 đồng nhưng chưa có tiền án thì không thể truy cứu TNHS dẫn đến việc có rất nhiều lượt tiền sự về hành vi đánh bạc nhưng không thể truy cứu TNHS.

Hiện tại, chưa có văn bản nào hướng dẫn cách tính số tiền dùng để đánh bạc theo quy định tại Điều 321 BLHS 2015, do vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng cách tính số tiền dùng để đánh bạc theo tinh thần của Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 248 và 249 BLHS 1999 [viết tắt là Nghị quyết số 01/2010]. Tuy nhiên, trong thực tiễn, hiện có một số bất cập khi áp dụng Nghị quyết này, qua phân tích dưới đây:

Điều 1 của Nghị quyết số 01/2010 nêu:

“2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau: 

a] Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự [dưới 000.000 đồng] và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự [đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm] thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc; 

b] Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự [từ 2.000.000 đồng trở lên] thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó; 

c] Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự [từ 2.000.000 đồng trở lên] thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự; 

Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt: 

a] Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này; 

b] Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa… thì một lần chơi số đề, một lần cá độ bóng đá, một lần cá độ đua ngựa… [để tính là một lần đánh bạc] được hiểu là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trongmột trận bóng đá, tham gia cá độ trongmột kỳ đua ngựa… trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều đợt. Trách nhiệm hình sự được xác định đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.

Thực tế, trong các vụ án đánh bạc, có rất nhiều cách chơi giữa các đối tượng, trong đó có cách chơi một người cầm cái, các nhà con sẽ đánh ăn thua với nhà cái [ví dụ: bầu cua, xóc đĩa, xì lát, binh xập xám,…]. Với những hình thức đánh bạc này, ngoài việc đánh bạc giữa nhà cái với nhà con, các nhà con có thể đánh với nhau tùy chọn. Như vậy, nếu bị phát hiện, thì việc xác định số tiền dùng đánh bạc trong trường hợp này hiện có hai quan điểm:

Thứ nhất: “Nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau” được hiểu là nhiều người cùng với nhau trực tiếp đánh bạc. Theo cách hiểu này, không kể các nhà con đánh với nhà cái hay giữa các nhà con với nhau thì đều xem là cùng tham gia đánh bạc với nhau. Và như vậy, khi bị phát hiện, căn cứ tổng số tiền đánh bạc của tất cả những người tham gia trên chiếu bạc [được xem là một lần đánh bạc từ khi bắt đầu cho đến khi bị phát hiện, không kể đánh bao nhiêu ván [đợt]], tất cả những người tham gia đánh bạc đều bị truy cứu TNHS nếu đủ định lượng.

Thứ hai: “Nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau” được hiểu là nhiều người cùng tham gia đánh bạc ăn thua trực tiếp với nhau. Trong trường hợp này, số tiền đánh bạc chỉ tính qua việc ăn thua trực tiếp với nhà cái vì giữa các nhà con không có việc đánh bạc với nhau. Trong trường hợp này, những nhà con chỉ chịu TNHS về số tiền đánh bạc của mình với nhà cái mà không phải chịu TNHS về tổng số tiền của tất cả những người cùng tham gia trên chiếu bạc. Trường hợp này, giống với trường hợp đánh bạc dưới hình thức số đề, cá độ bóng đá…

Qua thực tiễn đấu tranh với tội phạm, nếu hiểu theo cách hiểu thứ nhất thì việc chứng minh không gặp nhiều khó khăn, không cần phải tính đến từng ván [đợt] đánh mà chỉ cần xác định tổng số tiền dùng đánh bạc của tất cả những người tham gia là bao nhiêu để xem xét TNHS. Tuy nhiên, theo cách hiểu này lại có điểm bất cập đó là có những trường hợp các con bạc chơi không đầy đủ từ đầu đến cuối, có lúc chơi, lúc không, thậm chí có thời gian nghỉ ngơi, sau đó mới chơi tiếp, nên nếu tính tổng số tiền dùng để đánh bạc cho tất cả những người có tham gia thì không phù hợp với việc phân hóa TNHS của từng cá nhân vi phạm trong trường hợp chứng minh được số tiền của mỗi người tham gia đánh bạc dưới mức định lượng.

Ngược lại, với cách hiểu thứ hai [cách tính số tiền đánh bạc giống như trường hợp đánh bạc dưới hình thức số đề, cá độ bóng đá], để chứng minh từng ván [đợt] đánh bạc của mỗi con bạc là bao nhiêu là rất khó khăn [chỉ mang tính ước lượng theo lời khai của người phạm tội [nếu không có sổ sách ghi chép từng ván], vì gần như các cuộc đánh bạc đều đã diễn ra được một thời gian mới bị phát hiện nên khó để chứng minh mỗi ván [đợt], từng nhà con đánh bạc với nhà cái bao nhiêu tiền để tính tổng số tiền cho một lần đánh bạc. Nhưng không phải là không thể chứng minh, trong trường hợp chứng minh được thì việc xử lý những người vi phạm lại phù hợp với việc phân hóa TNHS của từng cá nhân vi phạm.

Trên đây là một số điểm bất cập khi áp dụng pháp luật về tội “Đánh bạc” theo hướng dẫn của Nghị quyết số 01/2010. Do vậy, hy vọng các cơ quan trung ương sớm ban hành hướng dẫn mới để xử lý thống nhất, đảm bảo xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Để làm rõ vấn đề này, trước hết chúng ta cần phải xác định số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của những người cùng tham gia đánh bạc với nhau sẽ được tính như thế nào, cụ thể như sau:

Khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày 22/10/2010 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC [gọi tắt là Nghị quyết số 01/2010] quy định:  “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm: a] Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc; b]Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;c] Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc”.

Đồng thời, điểm a khoản 4 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010 cũng quy định: “Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này”.

Căn cứ theo những quy định này, có thể thấy trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của từng người sẽ chính là tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của tất cả những người cùng tham gia đánh bạc bao gồm tiền, hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc; tiền, hiện vật thu giữ được trong người của các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc và tiền, hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc. Bên cạnh đó, khi tính số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của từng người tham gia đánh bạc thì cần phải chú ý 02 vấn đề sau:

Thứ nhất, trường hợp nhiều người đang cùng tham gia đánh bạc với nhau mà có người dừng lại và không tiếp tục tham gia nữa thì số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của người dừng lại sẽ chính là tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của tất cả những người cùng tham gia đánh bạc tại thời điểm người đó dừng lại. Nếu sau khi người đó dừng lại và có thêm những người khác tham gia, đồng thời những người khác này không liên quan gì đến người dừng lại như không bị người dừng lại rủ rê, lôi kéo, cho mượn tiền để tham gia đánh bạc… thì người dừng lại không phải chịu trách nhiệm đối với số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của những người tham gia sau. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về đồng phạm vì người tham gia đánh bạc sau và người dừng lại trước đó không phải là đồng phạm của nhau.

Thứ hai, căn cứ theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010 nêu trên, chúng ta thấy tiền, hiện vật dùng đánh bạc không chỉ là tiền, hiện vật dùng đánh bạc thu giữ trực tiếp tại chiếu bạc mà còn có thể là tiền, hiện vật thu giữ ở những nơi khác như trong người của các con bạc, trong túi xách, phương tiện của các con bạc… mà có đủ căn cứ xác định đã dùng hoặc sẽ dùng để đánh bạc và những người cùng tham gia đánh bạc đều phải chịu trách nhiệm chung đối với tất cả số tiền, hiện vật dùng đánh bạc này.

Đối với tiền, hiện vật dùng đánh bạc thu giữ trực tiếp trên chiếu bạc thì những người cùng tham gia đánh bạc có thể biết rõ số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của mỗi người là bao nhiêu. Tuy nhiên, đối với tiền, hiện vật dùng đánh bạc ở những nơi khác thì những người cùng tham gia đánh bạc khó có thể biết rõ số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của mỗi người là bao nhiêu nếu như họ không trực tiếp kiểm tra hoặc từng người không công khai cụ thể, rõ ràng.

Như vậy, khi xác định số tiền, hiện vật dùng đánh bạc, pháp luật không bắt buộc những người cùng tham gia đánh bạc phải biết rõ số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của từng người cụ thể là bao nhiêu mà chỉ cần chứng minh được rằng họ cùng tham gia đánh bạc với nhau, có dùng tiền, hiện vật để đánh bạc và những khoản tiền, hiện vật nào đã dùng hoặc sẽ dùng để đánh bạc. Điều này hoàn toàn phù hợp với tâm lý của những người tham gia đánh bạc vì họ luôn mong muốn lấy được thật nhiều tiền, hiện vật nên thường sẽ không quan tâm đến số tiền, hiện vật dùng đánh bạc của người khác và thậm chí, còn mong muốn những người khác mang thêm thật nhiều tiền, hiện vật để tham gia đánh bạc mà không bị giới hạn về số lượng.

 Mặc dù hướng dẫn cho BLHS năm 1999 [sửa đổi, bổ sung năm 2009] đã hết hiệu lực thi hành, tức Nghị quyết số 01/2010 cũng đã hết hiệu lực thi hành nhưng những nội dung hướng dẫn được nêu trong nghị quyết vẫn còn phù hợp với BLHS năm 2015 cũng như lý luận khoa học Luật Hình sự và chưa có văn bản mới nào thay thế nên có thể vận dụng tinh thần của những nội dung hướng dẫn này để giải quyết. Từ đó, quay trở lại tình huống, chúng ta thấy:

Ban đầu, A, B, T và P đánh bạc cùng với nhau, trong đó T sử dụng 3.450.000 đồng, B sử dụng 400.000 đồng, A sử dụng 40.000 đồng để đánh bạc và chưa xác định được số tiền đã sử dụng để đánh bạc của P nên tổng số tiền mà các đối tượng A, B, T và P đã dùng để đánh bạc là 3.890.000 đồng. Đánh được khoảng 60 phút thì A và B thua hết tiền nên đã cầm cố xe mô tô cho T để vay 2.000.000 nhằm đánh bạc tiếp. Mặc dù T sử dụng số tiền ban đầu có sẵn và số tiền thắng được trong quá trình đánh bạc để cho A và B vay nhưng A và B lại tiếp tục sử dụng 2.000.000 đồng đã vay để đánh bạc nên có thể thấy:

- Nếu giả sử A, B và P đểu thua hết tiền thì số tiền mà T có được sẽ là 5.890.000 đồng, bao gồm 3.890.000 đồng là toàn bộ số tiền mà A, B, P, T có ban đầu và 2.000.000 đồng là tiền mà A và B đã vay của T nhưng chưa trả. Rõ ràng, những số tiền này là tiền đã dùng để đánh bạc.

- Xét về thực tế thì số tiền 2.000.000 đồng mà A và B đã vay của T nằm trong số tiền dùng đánh bạc 3.890.000 đồng ban đầu. Tuy nhiên, xét về bản chất thì số tiền 2.000.000 đồng này lại đại diện cho một khoản tiền khác có trị giá là 2.000.000 đồng của A, B và khoản tiền này đã được dùng để đánh bạc. Vì chưa có điều kiện lấy khoản tiền đó để sử dụng nên A, B đã phải vay của T và A, B có trách nhiệm dùng khoản tiền này để trả nợ cho T. Khoản tiền này có thể ở bất cứ nơi nào mà A và B xác định là sẽ dùng để trả lại số tiền 2.000.000 đồng đã vay của T như ở nhà, trong tủ quần áo, két sắt… nên đây chính là tiền ở nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã dùng đánh bạc theo quy định tại khoản 3 Điều 1 Nghị quyết số 01/2010. Do đó, cần xác định khoản tiền có trị giá 2.000.000 đồng được đại diện thông qua số tiền 2.000.000 đồng mà A và B đã vay của T để đánh bạc là tiền dùng đánh bạc và đây là công cụ phạm tội nên sẽ bị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 1 Điều 47 BLHS.

Vì vậy, số tiền dùng đánh bạc của A, B, T và P khi này sẽ tăng thêm 2.000.000 đồng, cụ thể là 3.890.000 đồng + 2.000.000 đồng = 5.890.000 đồng.

Sau đó, G đến, sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc cùng và thua hết nên số tiền dùng đánh bạc của A, B, T, P và G là 6.090.000 đồng. Khi G về, A, B, T và P vẫn tiếp tục đánh bạc với nhau và mỗi khi hết tiền, A, B lại tiếp tục vay của T thêm 04 lần nữa với tổng số tiền là 7.000.000 đồng. Số tiền 7.000.000 đồng này cũng là tiền T lấy từ số tiền ban đầu có sẵn và số tiền thắng được trong quá trình đánh bạc để đưa cho A và B vay nên số tiền này cũng phải được tính vào số tiền mà A, B, T và P dùng để đánh bạc. Vì vậy, số tiền mà A, B, T và P dùng để đánh bạc khi này là 13.090.000 đồng.

Theo tình huống, những người đến tiếp theo là C sử dụng 200.000 đồng, D sử dụng 160.000 đồng, H sử dụng 350.000 đồng, K sử dụng 200.000 đồng và Y sử dụng 180.000 đồng để đánh bạc. Đồng thời, các đối tượng đến trước đều thua và nghỉ khi các đối tượng sau đến và A, B, T và P là những người cùng đánh bạc với nhau đến cuối cùng nên số tiền dùng đánh bạc của từng người tại thời điểm kết thúc việc đánh bạc sẽ được xác định như sau:

- A, B, T và P đều có số tiền dùng đánh bạc như nhau là 13.090.000 đồng + 200.000 đồng + 160.000 đồng + 350.000 đồng + 200.000 đồng + 180.000 đồng = 14.180.000 đồng.

- G có số tiền dùng đánh bạc là 6.090.000 đồng.

- C có số tiền dùng đánh bạc là 13.090.000 đồng + 200.000 đồng = 13.290.000 đồng.

- D có số tiền dùng đánh bạc là 13.090.000 đồng + 200.000 đồng + 160.000 đồng = 13.450.000 đồng.

- H có số tiền dùng đánh bạc là 13.090.000 đồng + 200.000 đồng + 160.000 đồng + 350.000 đồng = 13.800.000 đồng.

- K có số tiền dùng đánh bạc là 13.090.000 đồng + 200.000 đồng + 160.000 đồng + 350.000 đồng + 200.000 đồng = 14.000.000 đồng.

- Vì Y là người đến tham gia đánh bạc nhưng về trước A, B, T và P, đồng thời sau khi Y về thì không còn ai khác đến tham gia cũng như A và B không tiếp tục vay tiền của T nữa nên số tiền dùng đánh bạc của Y cũng giống với số tiền dùng đánh bạc của A, B, T và P, tức Y có số tiền dùng đánh bạc là 14.180.000 đồng.

Từ đó, căn cứ vào số tiền mà các đối tượng đã dùng đánh bạc, có thể thấy A, B, T, P, G, C, D, H, K và Y phải phạm vào tội Đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS.

Trên đây là quan điểm của tôi đối với tình huống trên, rất mong được sự trao đổi, đóng góp ý kiến của quý bạn đọc.

Một vụ đánh bạc bị bắt tại Phú Yên - Ảnh: DDK

Video liên quan

Chủ Đề