Khởi nghĩa bà triệu năm bao nhiêu

Bà Triệu hay còn được gọi là Triệu Ẩu [tiếng Hán có nghĩa là Bà Triệu], tên là Triệu Thị Trinh, sinh năm Bính Ngọ [226] tại miền núi Quân Yên [hay Quan Yên], quận Cửu Chân, nay thuộc làng Quan Yên [hay còn gọi là Yên Thôn], xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.

Từ nhỏ, bà sớm tỏ ra có chí khí hơn người. Khi cha bà hỏi về chí hướng mai sau, tuy còn ít tuổi, bà đã rắn rỏi thưa: “lớn lên con sẽ đi đánh giặc như bà Trưng Trắc, Trưng Nhị.

Truyền thuyết kể rằng, bấy giờ ở quê bà có con voi trắng một ngà rất hung dữ phá phách ruộng nương, làng xóm, cây cối không ai trị nổi. Bà bèn họp các bạn bày mưu, dùng kế lừa voi xuống một bãi đầm lầy, rồi bà nhảy lên đầu voi, dùng búa khuất phục nó. Từ đó voi trở thành người bạn chiến đấu trung thành của bà.

Khi cha mẹ mất, Bà Triệu đến ở với anh là Triệu Quốc Đạt, một hào trưởng ở Quan Yên. Lớn lên, bà là người có sức mạnh, giỏi võ nghệ, lại có chí lớn. Năm 19 tuổi, đáp lời người hỏi bà về việc chồng con, Bà Triệu nói: “Tôi chỉ muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá trường kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người.”

Đến năm 20 tuổi gặp phải người chị dâu [vợ ông Đạt] ác nghiệt, bà giết chị dâu rồi vào ở trong núi Nưa [nay thuộc các xã Tân Ninh huyện Triệu Sơn; xã Mậu Lâm, huyện Như Thanh và xã Trung Thành huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa], chiêu mộ được hơn ngàn tráng sĩ.

Năm Mậu Thìn [248], thấy quan lại nhà Đông Ngô tàn ác, dân tình khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh chống lại. Sau một thời gian chuẩn bị, anh em Bà Triệu dùng khu vực rừng núi Nưa để lập căn cứ, tập hợp thêm lực lượng, chuẩn bị lương thảo, nhằm mở rộng địa bàn hoạt động xuống miền đồng bằng. Dưới ngọn cờ cứu nước của Bà Triệu, nhân dân khắp huyện Cửu Chân một lòng ủng hộ, nô nức tham gia.

Cuộc khởi nghĩa của bà và Triệu Quốc Đạt bùng nổ vào năm 248 và được dân trong quận Cửu Chân [vùng Thanh-Nghệ-Tĩnh] hưởng ứng nhiệt liệt và nhanh chóng lan tỏa ra quận Giao Chỉ [khu vực Hà Nội và các tỉnh chung quanh ngày nay]. Bà làm hịch truyền đi khắp nơi, kể tội nhà Ngô và kêu gọi mọi người đứng dậy đánh đuổi quân Ngô. Từ núi rừng Ngàn Nưa, nghĩa quân Bà Triệu tấn công thành Tư Phố và thắng được nhiều trận lớn.

Bà Triệu cùng nghĩa quân vượt sông Mã xuống vùng Bồ Điền để xây dựng căn cứ địa. Về mặt quân sự, địa hình tự nhiên vùng Bồ Điền có đủ yếu tố để xây dựng một căn cứ thuận lợi cho cả “công” lẫn “thủ”. Từ đây có thể ngược sông Lèn, sông Âu ra sông Mã rút lên mạn Quân Yên [quê hương Bà Triệu], hoặc tới căn cứ núi Nưa lúc cần; lại có thể chủ động tấn công ra phía Bắc theo lối Thần Phù để khống chế địch ở mặt này.

Dựa vào địa hình hiểm yếu ở Bồ Điền, nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn lũy vững chắc. Thanh thế nghĩa quân ngày càng lớn, khắp hai quận Cửu Chân, Giao Chỉ nhân dân một lòng hưởng ứng công cuộc cứu nước của Bà Triệu. Các thành ấp của giặc Ngô ở Cửu Chân lần lượt bị hạ.

Từ Cửu Chân, Giao Chỉ, cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng lan ra tận Cửu Đức, Nhật Nam [khu vực miền Trung, phía nam của Thanh-Nghệ-Tĩnh]. Thứ sử Giao Châu bị giết, bọn quan lại đô hộ ở Giao Châu hết sức hoảng sợ trước thanh thế và sức mạnh của nghĩa quân. Sử nhà Ngô thú nhận: Năm 248 “toàn thể Châu Giao đều chấn động”.

Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Với vai trò Minh chủ, Bà Triệu tỏ ra rất có tài chỉ huy lúc chiến đấu thì vô cùng dũng mãnh. Khi ra trận, Bà mặc áo giáp vàng, đi guốc ngà, cài trâm vàng, cưỡi voi và được tôn là Nhụy Kiều tướng quân. Bà Triệu lãnh đạo quân khởi nghĩa đã đánh cho quân Ngô nhiều trận thất điên bát đảo.

Đầu voi phất ngọn cờ vàng Đạp luồng sóng dữ, đánh tan giặc thù

Quân Ngô ở miền Cửu Chân không đủ sức phá nổi nghĩa quân, vì vậy vua Ngô phải cử viên danh tướng Lục Dận làm thứ sử Giao Châu kiêm chức An Nam Hiệu úy, đem thêm 8.000 quân tinh nhuệ sang nước ta đàn áp phong trào khởi nghĩa.

Lục Dận một mặt ra sức trấn áp nhân dân, mặt khác dùng thủ đoạn xảo quyệt, đem của cải, tiền bạc mua chuộc nhiều thủ lĩnh địa phương nhằm ổn định Giao Chỉ để tập trung lực lượng tấn công trọng điểm của quân khởi nghĩa ở Cửu Chân.

Quân Ngô hơn hẳn quân khởi nghĩa về mặt tổ chức cũng như về mặt vũ khí. Quân khởi nghĩa, mặc dù dũng mãnh, nhưng với thế cô, lực bạc không đủ cầm cự lâu dài với đạo binh với vũ khí hiện đại hơn và với quân số đông hơn mình gấp nhiều lần. Do đó, sau nhiều cuộc tấn công ráo riết của địch quân, Bà Triệu cùng với nghĩa quân phải rút về núi Tùng Sơn.

Theo Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, lực lượng khởi nghĩa của bà Triệu chống đỡ với quân Đông Ngô được năm sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi Tùng [xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa] vào năm Mậu Thìn [248], lúc mới 23 tuổi. Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến năm 265.

Làng Yên Thôn nằm bên dòng sông Mã, ngay dưới chân núi Quan Yên thuộc quận Cửu Chân xưa, nay thuộc xã Định Tiến, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Địa thế của làng rất đẹp, với hình sông dáng núi thơ mộng, thiên nhiên trời đất giao hòa. Năm 226, vùng đất sơn thủy hữu tình này đã chứng kiến sự ra đời của người con gái mang tên Triệu Thị Trinh hay còn gọi là Triệu Trinh Nương, để rồi sau này trở thành vị liệt nữ làm rạng danh quê hương, đất nước. Câu nói bất hủ của Triệu Trinh Nương "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người" đã hun đúc nên truyền thống anh hùng, bất khuất trong chống giặc ngoại xâm suốt chiểu dài lịch sử của dân tộc.

Theo các các cụ cao niên làng Yên Thôn, bãi sông này trước kia gọi là "cánh đồng Kho", tương truyền là nơi đặt kho quân lương của Bà Triệu. Trước những năm 50 của thế kỉ XX, đây là một ngôi làng nhỏ thuộc Yên Thôn. Đền thờ Bà Triệu được lập ở đây, nhân dân địa phương nhang khói thời tự quanh năm. Do sự bồi lở của dòng sông Mã, làng và đền xưa không còn nữa, những ngày hội đền náo nức nay chỉ còn trong ký ức.

Sau này, khi Đền thờ Bà Triệu không còn, dân làng Yên Thôn đã chọn Nghè Trúc linh thiêng nằm ở lưng chừng núi Quan Yên để thờ Bà cùng thần hoàng làng. Khi nghè Trúc bị hư hỏng, Chính quyền và Nhân dân địa phương đã tổ chức quyên góp, phát tâm công đức, xây dựng nghè mới khang trang như hiện nay. Hàng năm, vào ngày 21/2 âm lịch, dân làng đều tổ chức rước kiệu, tế lễ để bày tỏ lòng biết ơn đối với Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh, người con ưu tú đã sinh ra trên mảnh đất này. Vùng đất xứ Thanh thấm đẫm những câu chuyện lịch sử, những huyền tích đẹp về Nữ vương Triệu Thị Trinh và cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm do Bà lãnh đạo.

Ngược dòng lịch sử cách đây gần 2 thiên niên kỉ, dãy núi Ngàn Nưa hùng vĩ đã được Triệu Trinh Nương lựa chọn để xây dựng căn cứ địa khởi nghĩa. Trong tầm nhìn của vị Nữ tướng tài ba, dãy Ngàn Nưa có vị trí quân sự chiến lược, có thể đạt được hai mặt tiến công và phòng thủ toàn diện. Dựa vào các thung lũng và eo núi, Bà chiêu mộ binh sĩ, rèn binh luyện tướng để chuẩn bị kéo quân về thành Tư Phố tiêu diệt giặc Đông Ngô.

Ngày nay trên dãy núi Ngàn Nưa vẫn còn một số địa danh được lưu truyền gắn với khởi nghĩa Bà Triệu như: giếng Tiên là nơi lấy nước uống cho nghĩa quân, Bãi Bò là nơi Nữ tướng luyện binh và mổ bò khao quân; Eo En, nơi Bà cùng binh sĩ tập bắn cung nỏ… Đặc biệt, trong gian trưng bày của chùa Am Tiên trên đỉnh núi Nưa có rất nhiều binh khí bằng đồng như dao, mũi tên do nhân dân đào được xung quanh chân núi. Các nhà khảo cổ đã giám định và cho rằng những binh khí này có niên đại từ 1700 - 2000 năm, phù hợp với thời điểm diễn ra cuộc khởi nghĩa Bà Triệu vào năm 248 sau công nguyên. Dưới chân núi và trên đỉnh Am Tiên hùng vĩ này đều có những điểm thờ tự linh thiêng, ghi nhớ công đức của Bà Triệu và các tướng sỹ, đã làm nên cuộc khởi nghĩa oai hùng bảo vệ giang sơn.

Dọc theo dãy Ngàn Nưa bát ngát có rất nhiều địa danh, công trình tâm linh gắn với các truyền thuyết dân gian về cuộc khởi nghĩa của Vua Bà. Riêng xã Trung Thành, huyện Nông Cống có tới hai ngôi đền thờ Bà Triệu tại làng Yên Dân và làng Đông Yên. Xung quanh ngôi đền ở làng Yên Dân có nhiều điểm gắn với cuộc khởi nghĩa như: bãi đất trống tương truyền là nơi Bà Triệu luyện quân, đầm lầy có hòn đá Thùng Voi là nơi Bà thu phục voi dữ. Cách đó không xa là đền thờ Triệu Quốc Đạt, anh trai Bà. Hai ngôi đền nằm trong không gian sơn thủy hữu tình, vừa giản dị, bình yên, vừa linh thiêng, trầm mặc. Riêng với đền thờ tại làng Đông Yên, trước kia khu vực xung quanh, người dân đào được khá nhiều trống đồng và các binh khí bằng đồng, minh chứng rõ nét về căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu năm xưa. Hiện nay, hai ngôi đền linh thiêng, giàu huyền tích gắn với vị Nữ tướng Triệu Trinh Nương đã được công nhận là di tích văn hóa cấp tỉnh, được xác định là điểm đến tâm linh trong quy hoạch phát triển du lịch của huyện Nông Cống trong tương lai.

Từ núi Quan Yên đến Ngàn Nưa, những vùng đất thiêng đã sinh ra Triệu Thị Trinh và bảo bọc nghĩa quân của Bà trong những ngày đầu gian khó; để rồi, khởi nghĩa dần lớn mạnh, tiến về xuôi và làm nên những chiến công oanh liệt tại căn cứ Bồ Điền, nay thuộc xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc. Mảnh đất Bồ Điền trong lịch sử đã được Nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh chọn để xây dựng căn cứ địa thứ 2, đồng thời cũng là nơi chứng kiến trận đánh cuối cùng và sự hy sinh oanh liệt của Bà.

Ngày nay, xã Triệu Lộc cũng là nơi lưu giữ nhiều công trình tâm linh thờ Bà Triệu có quy mô lớn. Nằm dưới chân núi Gai, thuộc thôn Phú Lộc, xã Triệu Lộc, đền Bà Triệu là công trình lớn nhất trong cả nước, thờ Anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh. Qua hàng ngàn năm, sau rất nhiều lần xây mới, trùng tu, tôn tạo, đền có diện mạo như ngày nay. Đền Bà Triệu được xây dựng theo kiến trúc đền thờ truyền thống của vùng đồng bằng Bắc Bộ, với bố cục tổng thể từ ngoài vào trong: Cổng ngoại, hồ nước, bình phong, cổng nội, tả hữu mạc, tiền đường, trung đường và hậu cung. Không gian Kiến trúc đền Bà Triệu được bố cục hài hòa, uyển chuyển, tạo nên vẻ đẹp cổ kính, linh thiêng.

Nằm trong quần thể Khu di tích Quốc gia đền Bà Triệu còn có nhiều di tích vệ tinh, ghi dấu ấn về cuộc khởi nghĩa do Bà lãnh đạo. Đỉnh núi Tùng tương truyền là nơi Nữ Vương Triệu Thị Trinh hi sinh để giữ trọn khí tiết; nơi đây Nhân dân đã xây lăng mộ Bà, để người liệt nữ này được yên nghỉ giữa không gian bao la của đất trời. Dưới chân núi Tùng còn có ngôi mộ của 3 vị tướng họ Lý người làng Phú Điền đã theo phò Vua Bà đánh giặc. Cách đó không xa là đình làng Phú Điền, được xem là nơi tụ linh, tụ phúc của làng, được xây dựng từ thế kỷ XVII để thờ thành hoàng làng, cũng chính là Nữ vương Triệu Trinh Nương.

Khu di tích Bà Triệu không chỉ là chứng tích quan trọng, nơi lưu giữ nhiều tư liệu lịch sử và giá trị văn hóa quý giá; mà còn thể hiện lòng biết ơn của lớp lớp cháu con dành cho vị Nữ anh hùng dân tộc. Tháng 12 năm 2014, khu di tích Bà Triệu đã được Thủ tướng chính phủ xếp hạng Di tích quốc gia đặc biệt.

Mặc dù không đi đến thắng lợi cuối cùng, nhưng dấu ấn cuộc khởi nghĩa Bà Triệu cùng hình ảnh vị Nữ Vương huyền thoại vẫn ghi vào trang sử dân tộc một mốc son chói lọi về tinh thần yêu nước và ý chí quật cường của Nhân dân ta. Gần 2 thiên niên kỷ đã trôi qua, thời gian có thể xóa mờ những dấu tích, tên đất, tên người… Nhưng trên mảnh đất Phú Điền xưa, trên đỉnh núi Tùng, Quan Yên, Ngàn Nưa hùng vĩ và nhiều nơi khác ở khắp dải đất xứ Thanh tươi đẹp này, những dấu tích lịch sử, những công trình tâm linh còn đó, nhắc nhở các thế hệ cháu con về công ơn, sự nghiệp oanh liệt của Nữ anh hùng dân tộc Triệu Thị Trinh với non sông đất nước.

Chủ Đề