Nguyên nhân khủng hoảng ukraine

Trong bối cảnh căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Nga, Mỹ và các nước thành viên Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) hiện nay, nhiều câu hỏi đang được dư luận hết sức quan tâm, đó là: bản chất của cuộc xung đột này là gì, tại sao lại xảy ra vào thời điểm hiện nay và chiều hướng của cuộc khủng hoảng ra sao?

Nội dung bài viết xem tại đây

PGS, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược, Học viện Ngoại giao, Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Ukraine kiêm nhiệm tại Moldova (2017 - 2020)

PGS, TS. NGUYỄN ANH TUẤN

Sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin thông báo quyết định triển khai chiến dịch quân sự đặc biệt tại Donbass, miền Đông Ukraine, hầu hết thị trường chứng khoán toàn cầu đều giảm với biên độ 2-3%.

Trong khi đó, giá của nhiều mặt hàng nhiên liệu lại “nhảy múa” với nhịp điệu hết sức khó lường. Lần đầu tiên kể từ năm 2014, giá dầu vượt ngưỡng 100USD/thùng, trong khi giá khí đốt tự nhiên tại châu Âu cũng tăng tới 62%. Giá năng lượng tăng cao được cho là sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế thế giới, làm giảm hiệu quả của những gói hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế mà các quốc gia đang thực hiện trong năm nay.

Ngoài giá năng lượng thì giá hàng hóa cũng leo thang chóng mặt. Nga và Ukraine là hai nhà cung cấp lớn về kim loại và nhiều loại lương thực, từ lúa mì cho tới đồng, niken. Do đó, cuộc khủng hoảng quan hệ giữa hai bên có tác động rất lớn đến giá cả của nhiều mặt hàng trên thị trường thế giới.

Giá nhôm đã chạm mức kỷ lục 3.449USD/tấn, tăng 21% từ đầu năm đến nay. Niken có lúc chạm ngưỡng 25.610USD/tấn, mức cao nhất hơn 1 thập kỷ. Giá lúa mì tại châu Âu cũng tăng cao lên 344 euro (384USD)/tấn trong phiên giao dịch ngày 24-2.

Nhiều nhà phân tích lo ngại chuỗi cung ứng các mặt hàng này có thể bị gián đoạn nghiêm trọng khi cuộc khủng hoảng tiếp tục diễn biến xấu. “Ukraine được xem là vựa lúa mì của châu Âu và cuộc khủng hoảng tại đây sẽ khiến chuỗi cung ứng lương thực gánh hậu quả nặng nề", Alan Holland-người sáng lập, CEO của Keelvar, một công ty chuyên cung cấp phần mềm hỗ trợ tìm nguồn cung ứng cho doanh nghiệp, cho biết.

Thực tế, không chỉ các nước trong Liên minh châu Âu (EU), nhiều quốc gia tại Trung Đông và châu Phi cũng phụ thuộc vào lúa mì và ngô từ Ukraine. Vì vậy, gián đoạn chuỗi cung ứng có thể ảnh hưởng tới an ninh lương thực tại các khu vực này.

Riêng đối với mặt hàng kim loại, sự thiếu hụt và tăng giá mạnh của các mặt hàng này sẽ ảnh hưởng đến nhiều ngành công nghiệp như xây dựng, bao bì, ô tô và pin xe điện.

Trong đại dịch, thế giới đã chứng kiến những sự gián đoạn nhỏ tại một khu vực cũng có thể gây ra thách thức lớn ở một nơi rất xa. Từ sự việc đơn lẻ, như thiếu hụt một vài mặt hàng, cũng có thể dẫn đến những tác động bao trùm cả nền kinh tế thế giới.

Hiện nay, đa số các quốc gia vẫn đang chật vật phục hồi từ cú sốc đại dịch. Do vậy, dư chấn từ cuộc khủng hoảng Ukraine có thể dễ dàng làm trầm trọng thêm những “vết thương kinh tế” do đại dịch Covid-19 gây ra.

Theo Chủ tịch Ngân hàng thế giới (World Bank) David Malpass, cuộc khủng hoảng sẽ gây ra những tác động kinh tế-xã hội sâu rộng. Làn sóng tăng giá đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ chốt của Nga như dầu, khí đốt và nguyên liệu sản xuất kim loại thô-dự kiến sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng lạm phát vốn đang gia tăng và sản xuất ngừng trệ do đại dịch Covid-19. Điều này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới những chiến lược, chính sách tiền tệ của các quốc gia trên thế giới.

Tuy nhiên, hiện tại còn quá sớm để có thể đưa ra đánh giá chính xác về tác động của cuộc khủng hoảng. Hãng tin Bloomberg nhận định mức độ của các tác động sẽ phụ thuộc vào những diễn biến tiếp theo trong cuộc xung đột Nga-Ukraine.

Nếu xung đột kéo dài, kèm với phản ứng cứng rắn hơn của các quốc gia phương Tây, sự gián đoạn đối với hoạt động xuất khẩu dầu khí của Nga sẽ gây ra cú sốc năng lượng lớn hơn và là đòn giáng mạnh vào thị trường toàn cầu. Nhưng nếu xung đột sớm kết thúc, điều này sẽ giúp ngăn chặn vòng xoáy leo thang của thị trường hàng hóa toàn cầu, qua đó những biến động kinh tế cũng phần nào giảm bớt.

NGỌC HÂN

Nguyên nhân khủng hoảng ukraine

Khi các doanh nghiệp nước ngoài rời khỏi thị trường Nga sẽ bỏ lại thị phần và doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận.

Cả Nga và Ukraine đều là những đối tác thương mại truyền thống và quan trọng của Việt Nam

Khủng hoảng Nga-Ukraine làm kinh tế Việt Nam không tránh khỏi hệ lụy. Bởi cả Nga và Ukraine đều là những đối tác thương mại truyền thống và quan trọng của Việt Nam tại khu vực Á-Âu. Về kim ngạch thương mại, Nga xếp thứ nhất, Ukraine xếp thứ 6.

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam với Nga và Ukraine năm 2021 vào khoảng 7,6 tỉ USD, chiếm 1,2% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước, trong đó kim ngạch xuất, nhập khẩu giữa Việt Nam và Nga đạt 7,14 tỉ USD tăng 25,9% so với năm 2020, đứng thứ 21 trong số các đối tác thương mại chính của Nga.

Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Nga trong khu vực ASEAN, đối tác lớn thứ 5 trong các nền kinh tế APEC. Năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Nga đạt 4,89 tỉ USD, tăng 20,9% so với năm 2020. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Nga đạt 2,25 tỷ USD, tăng 38,3%. Việt Nam xuất siêu sang Nga 2,64 tỷ USD.

Hiện nay, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Nga điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; hàng dệt may. Ba nhóm hàng này chiếm khoảng 57% kim ngạch xuất khẩu sang Nga, đây sẽ là các nhóm hàng bị tác động nhiều nhất trong thời gian tới. 

Kim ngạch xuất khẩu nhóm sản phẩm nông nghiệp và thủy sản chiếm khoảng 15,8% tổng kim ngạch xuất khẩu, là nhóm sản phẩm cũng sẽ bị ảnh hưởng, mặc dù Nga không phải là thị trường lớn của các mặt hàng này.

Việt Nam xuất sang thị trường Nga và Ukraine lượng hàng hoá không lớn nhưng có sự lan tỏa ra khu vực liên minh Á-Âu là thị trường Việt Nam đã ký FTA. Do đó, sự đứt gãy hoạt động thương mại sẽ tác động đến cả những thị trường liên quan khác.

Việt Nam nhập khẩu từ Nga và Ukraine chủ yếu là lúa mỳ, hải sản, phân bón, gỗ và sản phẩm gỗ. Kim ngạch nhập khẩu gỗ trực tiếp từ Nga không lớn chỉ khoảng 2% tổng kim ngạch nhập khẩu gỗ. Tuy vậy Việt Nam nhập khẩu gỗ khá lớn từ châu Âu với nguyên liệu gỗ của Nga.

KHỦNG HOẢNG NGA-UKRAINE: KINH TẾ VIỆT NAM KHÔNG TRÁNH KHỎI HỆ LỤY

Nền kinh tế nước ta có độ mở lớn, tham gia nhiều hiệp định thương mại đa phương và song phương, hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới; nguyên, nhiên vật liệu nhập khẩu cho sản xuất chiếm tỷ lệ cao, khi kinh tế thế giới suy giảm và lạm phát cao, đặc biệt kinh tế của các đối tác quan trọng với Việt Nam suy giảm sâu sẽ tác động trực tiếp và gián tiếp khá mạnh đến đà phục hồi và phát triển kinh tế nước ta.

Thiếu hụt nguồn cung

Đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu do đại dịch COVID-19 gây ra chưa được khắc phục thì khủng hoảng Nga-Ukraine càng làm trầm trọng hơn. Điều này ảnh hưởng nặng nề tới nguồn cung nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất của nước ta, tác động trực tiếp đến lạm phát và tăng trưởng.

Bên cạnh cạnh đó, khủng hoảng Nga-Ukraine còn làm chuỗi cung ứng toàn cầu bị gián đoạn, ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhất là đối với kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng điện, điện tử vì cả Nga và Ukraine là 2 nhà cung cấp lớn những vật liệu quan trọng để sản xuất các nguyên phụ liệu cấu thành các thiết bị điện tử như nickel, palladium nên bất kỳ hạn chế hay gián đoạn nào về nguồn cung hàng hóa Nga có thể gây gián đoạn chuỗi sản xuất thiết bị điện tử.

Trong những năm gần đây, nước ta nhập siêu khoảng 6 tỷ USD đối với mặt hàng xăng dầu. Khi giá xăng dầu tăng cao, giá trị nhập siêu mặt hàng này cũng sẽ tăng.

Mặt khác, khủng hoảng Nga-Ukraine cùng với cấm vận sẽ khiến việc giao - nhận hàng xuất, nhập khẩu của Việt Nam với Nga bị chậm, chi phí vận chuyển tăng cao, làm tăng chi phí. Ngoài ra, khi đồng rub mất giá cũng sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu và ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.

Bên cạnh đó, việc Nga bị loại khỏi hệ thống của SWIFT đã và đang có các tác động nhất định tới hoạt động kinh tế và giao thương của Việt Nam. Trước mắt sẽ không ảnh hưởng nhiều tới kim ngạch xuất khẩu nhưng về lâu dài, điều này sẽ tác động tới tâm lý và giao dịch thương mại của doanh nghiệp, các khách hàng có hoạt động đầu tư, giao thương với Nga, trong đó có cả Việt Nam sẽ chịu tác động nhất định.

Gia tăng áp lực lạm phát

Khủng hoảng Nga-Ukraine là một trong những nguyên nhân chính làm gia tăng thêm giá hàng hóa trên thị trường thế giới. Sản lượng sản xuất và thị phần xuất khẩu một số mặt hàng nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất và tiêu dùng như: Xăng dầu, khí đốt, lúa mì, nhôm, nickel, ngô… của Nga và Ukraine rất lớn. 

Vì vậy nếu cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine kéo dài có thể gây khó khăn về nguồn cung các loại nguyên, nhiên vật liệu này trong thời gian tới, ảnh hưởng tới quá trình phục hồi và phát triển kinh tế nước ta.

Chỉ riêng mặt hàng xăng dầu trong nước bình quân quý I/2022 tăng 48,81% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp tới 1,76 điểm phần trăm trong mức lạm phát bình quân 1,92% của 3 tháng đầu năm nay. Song song với đó, giá gas trong nước biến động theo giá xăng dầu và giá gas thế giới, bình quân quý I/2022 giá gas tăng 21,04% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI chung tăng 0,31 điểm phần trăm.

Bên cạnh xăng dầu và gas, giá các loại nông sản như: Lương thực, bông; thức ăn chăn nuôi; phân bón; kim loại công nghiệp; sắt thép xây dựng tăng cao sẽ tạo áp lực rất lớn đến mục tiêu kiểm soát lạm phát năm nay của nước ta.

Áp lực lạm phát năm nay của nước ta chịu tác động khá lớn do nhập khẩu lạm phát từ bên ngoài và lạm phát chi phí đẩy. Khủng hoảng Nga-Ukraine làm giá nhập khẩu một số nguyên, nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước quý I/2022 so với cùng kỳ năm trước tăng cao như: Giá nhập khẩu sắt thép tăng 43,87%; giá xăng dầu tăng 40,44%; giá thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 27,73%.

Bên cạnh đó, khủng hoảng Nga-Ukraine cũng tác động tới đầu tư của Nga và các đối tác liên quan tại Việt Nam. Nga có nhiều dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, chủ yếu trong lĩnh vực dầu khí và điện. Chẳng hạn dự án nhiệt điện Long Phú 1 do Power Machines (PM) của Nga làm tổng thầu bị chậm kế hoạch 2 năm do công ty PM bị liệt vào danh sách cấm vận của Mỹ; hay như dự án điện gió ngoài khơi Vĩnh Phong với liên doanh Zarubezhneft JSC của Nga và DEME Concessions của Bỉ, đã ký biên bản ghi nhớ từ tháng 4/2021.

Du lịch quốc tế phục hồi chậm 

Năm 2019, trước khi xảy ra dịch COVID-19, Việt Nam đón khoảng 4,5 triệu lượt khách Nga, chiếm 25% tổng lượng khách quốc tế đến Việt Nam. Trung bình một du khách Nga chi tiêu ở Việt Nam khoảng 1.600 USD cho một chuyến thăm, cao hơn mức trung bình 900 USD của khách du lịch quốc tế.

Hiện nay, do đồng rub mất giá, lạm phát tăng cao, kinh tế Nga đang đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng tới quyết định đi du lịch của người Nga, bên cạnh đó các hãng hàng không Nga không được phép đưa công dân của họ ra nước ngoài để đi nghỉ. Chỉ riêng khách Nga đã làm thất thu cho lĩnh vực du lịch nước ta khoảng trên 7 tỷ USD. Con số này cho thấy Nga là thị trường mũi nhọn, đầy tiềm năng của ngành du lịch Việt Nam.

Do khủng hoảng Nga-Ukraine, để đảm bảo an ninh, an toàn hàng không các hãng hàng không phải bay vòng khiến thời gian bay và giá vé tăng cao cũng là trở ngại và ảnh hưởng không nhỏ tới du lịch Việt Nam. 

Đồng rub mất giá, lạm phát tăng cao, nền kinh tế Nga đang đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng tới quyết định đi du lịch của người Nga.

Nhìn chung, kinh tế nước ta không tránh khỏi những hệ luỵ từ khủng hoảng Nga-Ukraine. 

Bên cạnh tác động trước mắt, như giá xăng dầu và nhiều mặt hàng thiết yếu tăng cao, Việt Nam sẽ phải tìm cách đối phó với những hệ luỵ lâu dài do Mỹ, phương Tây và nhiều nước trên thế giới áp dụng các biện pháp trừng phạt Nga và do chuỗi cung ứng toàn cầu bị đứt gãy.

KHỦNG HOẢNG NGA-UKRAINE: VẪN CÓ NHỮNG CƠ HỘI

Bên cạnh một số bất lợi, cuộc khủng hoảng Nga-Ukraine vẫn mang cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam khi doanh nghiệp nước ngoài rời đi, bỏ lại những thị phần có thể tiếp cận.

Khi căng thẳng Nga và phương Tây nổ ra, thị trường tại các nước này tiềm ẩn rủi ro, nhiều nhà đầu tư sẽ đẩy nhanh hơn quá trình đa dạng hóa, chuyển dịch chuỗi cung ứng, dòng vốn đầu tư, tìm kiếm địa chỉ an toàn hơn. Đây là điểm thuận lợi cho Việt Nam với tình hình chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng khá, môi trường đầu tư, kinh doanh ngày càng được cải thiện.

Bên cạnh đó, khi các doanh nghiệp nước ngoài rời khỏi thị trường Nga, bỏ lại thị phần để doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận. Việt Nam có cơ hội tốt để tăng cường thâm nhập thị trường EU, chủ yếu trong lĩnh vực nông phẩm và lương thực thay thế hàng từ Nga và Ukraine.

Nhìn rộng hơn, Việt Nam có cơ hội hưởng lợi từ việc EU có thể dời hoạt động kinh doanh tại khu vực bất ổn địa chính trị, đến nơi có chính sách hợp lý và chính trị ổn định. Vì vậy, thời gian tới, FDI có thể sẽ chuyển hướng vào khu vực như Đông Nam Á, Đông Bắc Á.

CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ?

Nâng cao khả năng chống chịu và tính tự chủ của nền kinh tế

Trong bối cảnh những bất định trên thế giới diễn ra với tần suất dày hơn và khó lường, Việt Nam cần có chiến lược xây dựng thể chế kinh tế, nâng cao khả năng chống chịu và tính tự chủ của nền kinh tế.

Đặc biệt cần xây dựng Chiến lược an ninh năng lượng, đảm bảo đủ năng lượng cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, sử dụng tối đa năng lượng tái tạo và năng lượng sạch, thân thiện với môi trường.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cần bổ sung quan điểm và các giải pháp nâng cao tính tự chủ, khả năng chống chịu và quản trị rủi ro.

Chính phủ, các hiệp hội doanh nghiệp và chính cộng đồng doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ về luật cấm vận của Mỹ, đồng thời tiến hành thảo luận ngay với đối tác Mỹ để tránh bị chế tài khi vi phạm các biện pháp cấm vận đối với Nga.

Đồng thời, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành tiếp tục cải cách hành chính, triển khai các giải pháp tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Phòng ngừa rủi ro trong thanh toán

Ngân hàng Nhà nước khẩn trương hướng dẫn doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất, nhập khẩu các hình thức thanh toán và biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán khi ký kết hợp đồng để tháo gỡ khó khăn về thanh toán do các ngân hàng Nga bị loại khỏi hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu hình thành các kênh chi trả thanh toán với các ngân hàng và doanh nghiệp Nga, cũng như qua các phương tiện chưa bị cấm vận để giúp doanh nghiệp trong nước có thể tiếp tục giao dịch với đối tác Nga một cách hợp pháp.

Nghiên cứu khả năng kinh doanh bằng đồng rub, hạn chế sử dụng ngoại tệ để tránh biến động tỷ giá, áp dụng các phương thức thanh toán bù trừ bằng đồng rub hay đổi hàng với Nga để hạn chế việc chuyển tiền qua ngân hàng.

Đảm bảo cung cầu cho thị trường trong nước, khai thác hiệu quả các FTA

Bộ Công Thương theo dõi nắm bắt, cập nhật thường xuyên tình hình căng thẳng về chính trị, ngoại giao, sự chuyển hướng trong chính sách kinh tế, thương mại, đầu tư của các nước, cung cấp thông tin kịp thời cho các bộ, ngành có liên quan để có giải pháp xử lý.

Đồng thời, Bộ Công Thương theo dõi sát biến động cung cầu các mặt hàng chiến lược nhạy cảm, kịp thời có giải pháp điều hành phù hợp, tận dụng cơ hội về giá để sản xuất, xuất khẩu và đảm bảo cung cầu cho thị trường trong nước.

Đẩy mạnh khai thác hiệu quả các FTA đã ký với các quốc gia, lãnh thổ, đặc biệt là FTA với Liên minh kinh tế Á-Âu; các nước khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu, đảm bảo luồng hàng hoá xuất nhập khẩu được thông suốt. Đẩy mạnh hợp tác, kết nối giữa các nền kinh tế.

Đa dạng hóa thị trường, nguồn cung và đồng tiền thanh toán

Để ứng phó với khủng hoảng Nga-Ukraine, cộng đồng doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường và nguồn cung, đồng tiền thanh toán; chủ động đàm phán với các đối tác về phương án vận chuyển hàng hóa, phương thức kinh doanh.

Đồng thời các doanh nghiệp cần rà soát lại hợp đồng và hồ sơ pháp lý bảo đảm chủ động trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu lưu ý áp dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong thanh toán khi ký kết và thực hiện hợp đồng.

Tình hình chính trị, kinh tế thế giới diễn biến mau lẹ, khó lường, các biện pháp trừng phạt và trả đũa khốc liệt chưa từng có, vì vậy những chính sách và giải pháp phải nhanh, điều chỉnh ngay khi có vấn đề phát sinh. Trong bối cảnh hiện nay, không nhất thiết phải ban hành chính sách trung và dài hạn cho 2 năm, 5 năm mà chính sách, giải pháp cần thiết thực, đảm bảo minh bạch, gắn với đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống./.

TS. Nguyễn Bích Lâm

Nguyên Tổng cục trưởng, Tổng cục Thống kê