Những cách làm hay, sáng tạo trong thực hiện quy định số 205-qđ/tw của bộ chính trị

Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam - dạy rằng: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Tư tưởng xuyên suốt của Người về công tác cán bộ được Đảng ta quán triệt, vận dụng sáng tạo, phù hợp tình hình thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng và đạt nhiều kết quả tích cực. Đảng ta luôn quan tâm, coi trọng công tác cán bộ trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội, gắn liền với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thật đáng buồn là vẫn có không ít cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao, vướng vòng lao lý. Vấn đề kiểm soát quyền lực cán bộ, vì vậy cần được đặc biệt chú trọng.

Hội nghị quán triệt Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền do Đảng ủy Công an thành phố Hải Phòng tổ chức ngày 29/11/2019.

Cuối tháng 3/2022, Thanh tra Chính phủ có Báo cáo kết quả giải quyết và trả lời kiến nghị của cử tri gửi sau kỳ họp thứ 2 [20/10/2021-13/11/2021], Quốc hội khóa XV [2021-2026]. Báo cáo cho biết, từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng [2 Ủy viên Bộ Chính trị], 22 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Đây mới chỉ là những cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, có liên quan đến tham nhũng.

Thời gian qua, những thông tin về việc kỷ luật cán bộ sai phạm là không phải cá biệt, hiếm thấy, ngay cả khi đại dịch Covid-19 hoành hành. Đơn cử như ngày 15/3/2022, tại Trụ sở Trung ương Đảng, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Ban Bí thư để xem xét, thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với các đồng chí: Phan Mạnh Cường, Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Bí thư Thành ủy Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Đại tá Nguyễn Thế Anh, Tỉnh ủy viên, Phó Bí thư Đảng ủy, Chỉ huy trưởng Bộ đội Biên phòng tỉnh Kiên Giang.

Đồng chí Phan Mạnh Cường bị kỷ luật do đã vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và Quy chế làm việc; vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm; thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo; thiếu kiểm tra, giám sát, có nhiều vi phạm trong quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách, tài sản, đất đai. Đồng chí Nguyễn Thế Anh bị kỷ luật do đã vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ và Quy chế làm việc, thiếu tu dưỡng rèn luyện, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; nhận hối lộ, vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm; vi phạm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong công tác cán bộ, trong quản lý, sử dụng tài chính, trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, buôn lậu và gian lận thương mại.

Những con số thống kê mà Thanh tra Chính phủ công bố, thông tin 2 đồng chí lãnh đạo bị kỷ luật nêu trên chỉ là những sự việc gần đây có liên quan đến công tác cán bộ, nhưng cùng với các sự việc tương tự xảy ra thời gian qua đã gây ảnh hưởng rất xấu đến uy tín của Đảng, gây hậu quả rất nghiêm trọng đến xã hội: làm thiệt hại tài sản của Nhà nước; làm xói mòn, phai nhạt niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Không thể tiếp tục để lọt vào hàng ngũ những “con sâu”, những “mầm bệnh” có thể gây ung nhọt, bệnh tật tàn phá “cơ thể Đảng”, việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ cần thiết phải được coi trọng hơn, phải luôn được xem là công việc hệ trọng, cấp bách, được thực hiện với quyết tâm chính trị cao.

Thực tế, việc kiểm soát quyền lực là vấn đề khá mới ở nước ta, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung nội dung này. Ngày 23/9/2019, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”.

Điều 2 của Quy định giải thích: “1. Quyền lực trong công tác cán bộ là thẩm quyền của tổ chức, cá nhân trong việc tuyển dụng, bố trí, quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, phong, thăng cấp bậc hàm, giới thiệu ứng cử, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ. 2. Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”.

Mới nhất, một trong những định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được nêu trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đặt ra yêu cầu: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình; kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”; “Tăng cường kiểm tra, giám sát công tác cán bộ, gắn với kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền”…

Có thể thấy rằng, chúng ta đã có khái niệm rất rõ ràng, cả về nội hàm cũng như phạm vi giới hạn vấn đề quyền lực trong công tác cán bộ và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ cùng những nghị quyết, quy định, hướng dẫn rất cụ thể về việc kiểm soát quyền lực. Vậy mà chỉ sau chưa đầy 10 năm triển khai thi hành việc kiểm soát quyền lực, vẫn có không ít cán bộ thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, vi phạm pháp luật ở các mức độ khác nhau.

Ngay cả trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp suốt hơn 2 năm qua, vẫn có những cán bộ vô cảm đang tâm ăn tiền trên nỗi thống khổ của nhân dân, của đồng bào mình; từ việc nâng giá thiết bị y tế, cấu kết “thổi giá” kit test xét nghiệm Covid-19 đến những chuyến bay “giải cứu công dân”; tiêu cực nảy sinh cả trong những ngành nghề cao quý được coi trọng trong xã hội như giáo dục, y tế đến những ngành nghề dễ tiêu cực như khi cán bộ được trao quyền để thực thi pháp luật, hay tại chính cơ quan pháp luật.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần sử dụng hình ảnh nhốt quyền lực vào lồng cơ chế, pháp luật. Điều ấy thể hiện việc coi trọng quá trình từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, nhất là trong công tác cán bộ, đồng thời khẳng định việc kiểm soát quyền lực bằng cơ chế và việc tổ chức thực hiện cơ chế ấy. Bởi khi đã có cơ chế kiểm soát quyền lực, nhưng việc thực hiện không được tiến hành nghiêm túc, chặt chẽ, công tâm, công bằng, thiếu sự giám sát thì chắc chắn sẽ nảy sinh những hậu quả đáng tiếc.

Không ít cán bộ bị thao túng, tha hóa, biến chất. Thực tế không ít vụ việc tai tiếng liên quan đến công tác cán bộ, đến từng cán bộ cụ thể cho thấy rõ rằng, một khi cán bộ được bổ nhiệm vào vị trí quyền lực, được trao quyền lớn mà không “thượng tôn pháp luật”, không tu dưỡng đạo đức, phẩm chất chính trị, không chịu sự kiểm soát chặt chẽ, thường xuyên bằng cơ chế, luật pháp thì rất dễ nảy sinh sự lợi dụng, lạm dụng quyền lực, tha hóa, biến chất dẫn tới vụ lợi, tham nhũng, tiêu cực, hình thành “nhóm lợi ích”, bè phái đục khoét của công…

Có thể thấy những vi phạm của một số cá nhân, tập thể đã gây hậu quả rất nghiêm trọng, thiệt hại lớn tiền và tài sản của Nhà nước, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến uy tín của cấp ủy, chính quyền địa phương. Việc kỷ luật cán bộ là không ai muốn, nhưng không thể không làm, để giữ nghiêm phép nước, để “thượng tôn pháp luật”, để răn đe những cán bộ nhăm nhe, tiềm ẩn những mưu đồ vì lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà bất chấp tất cả, sẵn sàng “nhúng chàm”.

Qua nghiên cứu, xem xét một số trường hợp, vụ việc liên quan đến vi phạm về thực hiện quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ có thể thấy các quy định về quyền và thực hiện quyền lực trong công tác cán bộ có lúc, có nơi chưa được thực hiện đầy đủ, đúng đắn. Bên cạnh đó, việc xây dựng cơ chế, thể chế và thực thi cơ chế, thể chế, chính sách về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ đôi khi còn chưa khả thi, chưa phù hợp thực tiễn, trong khi việc kiểm soát quyền lực chưa được tiến hành một cách kịp thời, sát sao, nghiêm minh.

Mặt khác, việc kiểm soát quyền lực ở nơi này, nơi khác còn chưa được thực hiện đầy đủ, trách nhiệm, quyết tâm, rõ ràng, từ việc tự kiểm soát quyền lực đối với từng chủ thể, kiểm soát lẫn nhau giữa các chủ thể, việc kiểm tra, giám sát chưa được thực hiện đúng, thường xuyên, nghiêm túc. Trong khi đó, những sai phạm của cá nhân, tổ chức còn chưa được xử lý, kỷ luật nghiêm minh. Do vậy, vẫn diễn ra tình trạng quy trình đúng, bổ nhiệm sai cán bộ, thể hiện qua các hiện tượng, sự việc cụ thể, như: Bổ nhiệm trước khi nghỉ hưu, chuyển công tác; tự ý bổ nhiệm, điều động cán bộ; bổ nhiệm người thân, cánh hẩu, người biết “chạy”, đút lót; bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện… Rõ ràng, việc xây dựng, phát triển một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả, ngăn chặn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, tham nhũng, tiêu cực… vẫn là vấn đề cấp bách, hệ trọng đối với sự sống còn của Đảng, sự phát triển vững bền của đất nước.

Xin được nhắc lại là, dù việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ luôn được quan tâm, ngày một hoàn thiện, nhưng vẫn khó tránh khỏi những sai sót trong công tác cán bộ. Ấy là do quy trình đúng, nhưng bổ nhiệm sai; là do có sự thao túng, lạm quyền, lợi dụng cơ chế, chính sách, các quy định trong công tác cán bộ. Điều này đòi hỏi việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ luôn phải được đề cao, xem trọng. Một khi việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ chưa thể chặt chẽ, hoàn thiện, vẫn còn những người cố tình bằng mọi cách để “bôi trơn”, lo lót, chạy chọt… thì vai trò của người đứng đầu với sự công tâm, liêm chính, vì tập thể sẽ là rất quan trọng, mang yếu tố quyết định đến sự thành bại đối với “công việc gốc của Đảng”.

Ngày 23/9/2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”. Quy định này được kỳ vọng sẽ ngăn chặn có hiệu quả tình trạng tha hóa, tham nhũng quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ; góp phần thiết thực vào việc thực hiện thành công Chiến lược cán bộ của Đảng. Bài viết trình bày những nội dung cơ bản về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo tinh thần Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị.

Ảnh minh họa

1. Vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án tệ tha hóa quyền lực: “Thứ nhất, dân ghét các ông chủ tịch, các ông ủy viên vì cái tật ngông nghênh, cậy thế, cậy quyền. Những ông này không hiểu nhiệm vụ và chính sách của Việt Minh, nên khi nắm chút quyền trong tay vẫn hay lạm dụng,…”[1]. Lời cảnh báo này cho thấy Đảng và Nhà nước ta đã sớm đặt vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ để tránh tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Tuy nhiên, việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý sai phạm trong sử dụng quyền lực của một số cấp ủy, tổ chức đảng vẫn còn là khâu yếu, chậm được khắc phục. Vì vậy, việc Bộ Chính trị ban hành Quy định số 205-QĐ/TW “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền” [Quy định số 205-QĐ/TW] trong tình hình hiện nay là hết sức cần thiết; sẽ là phương thức hữu hiệu để kiểm soát quyền lực và chống chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ.

Về khái niệm quyền lực và kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: “Quyền lực là quyền định đoạt mọi công việc quan trọng về mặt chính trị và sức mạnh để đảm bảo việc thực hiện quyền ấy”[2]. Có quan niệm khác cho rằng: “Quyền lực là việc tác động, chi phối của chủ thể nắm quyền lực lên khách thể, buộc họ phải phục tùng trong định đoạt mọi công việc quan trọng và sức mạnh để đảm bảo thực hiện quyền ấy”[3]. Theo Quy định số 205-QĐ/TW: “Quyền lực trong công tác cán bộ là thẩm quyền của tổ chức, cá nhân trong việc tuyển dụng, bố trí, quản lý, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, phong, thăng cấp bậc hàm, giới thiệu ứng cử, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật, kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ”.

Như vậy, quyền lực trong công tác cán bộ là rất lớn, do đó, cần phải được kiểm soát chặt chẽ để phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý vi phạm.

Về kiểm soát và kiểm soát quyền lực, theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học: “Kiểm soát là xem xét để phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”[4]. Tác giả Mai Trực cho rằng: “Kiểm soát quyền lực là việc chủ thể quyền lực sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp để tác động vào mối quan hệ giữa người áp đặt ý chí [người mang quyền lực] và người bị áp đặt ý chí [người phục tùng quyền lực] nhằm hạn chế xu hướng tha hóa quyền lực bằng cách phân công, phối hợp giữa các cơ quan của Đảng và Nhà nước trong việc lãnh đạo và thực hiện chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp”[5]. Quy định số 205-QĐ/TW khẳng định: “Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là việc sử dụng cơ chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về công tác cán bộ; phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền, lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”.

Để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, Quy định số 205-QĐ/TW quy định rõ thẩm quyền của người đứng đầu chủ yếu là chỉ đạo, điều hành về thủ tục, quy trình công tác cán bộ, đảm bảo công khai, minh bạch, vận hành đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ…, chứ không có quyền quyết định về nhân sự vì đó là thẩm quyền của tập thể. Quy định số 205-QĐ/TW cũng có điều khoản riêng quy định về trách nhiệm của người đứng đầu và cán bộ tham mưu, đề xuất thuộc cơ quan được giao thực hiện công tác cán bộ ở các cấp mà chủ yếu là ban tổ chức của cấp ủy hoặc cơ quan nội vụ bên chính quyền.

Quy định số 205-QĐ/TW đã thể hiện nhất quán chủ trương của Đảng và là căn cứ quan trọng để đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi những tiêu cực trong công tác cán bộ, trước mắt là phục vụ tốt công tác nhân sự đại hội đảng các cấp trong thời gian tới. Tác dụng đầu tiên của Quy định số 205-QĐ/TW là sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức của những người có chức, có quyền, đặc biệt là những người có quyền hạn trong công tác cán bộ, đồng thời sẽ điều chỉnh nhận thức và hành vi của những đối tượng đang có ý định chạy chức, chạy quyền. Có thể nói, đây là lần đầu tiên Đảng xác định công tác cán bộ là một loại quyền lực cần được kiểm soát và cũng lần đầu tiên các hành vi chạy chức, chạy quyền gắn liền với công tác cán bộ được Đảng chỉ rõ trong một quy định của Bộ Chính trị; được cán bộ, đảng viên đánh giá rất cao “…đây là lần đầu tiên vấn đề kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền chính thức được Bộ Chính trị ban hành trong một quy định do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước ký. Lần đầu tiên một quy định đã chỉ rõ, cụ thể các hành vi chạy chức, chạy quyền và các hành vi bao che, dung túng, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền”[6]. Việc Đảng ta dành sự quan tâm sâu sắc đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ là tất yếu, bởi vì ở bất kỳ đâu và lúc nào, quyền lực cũng luôn có hai mặt. Mặt tích cực, nó là công cụ hữu hiệu để tập hợp lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng một xã hội tốt đẹp, nếu như quyền lực ấy được trao cho những con người có nhân cách tốt. Mặt tiêu cực, nó luôn làm tha hóa những con người và bộ máy sử dụng quyền lực nhưng lại yếu kém về nhân cách và không có cơ chế tốt để kiểm soát quyền lực[7].

Nhận thức rõ điều này, trong các nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc [ĐBTQ], Đảng ta đều ban hành các văn bản quy định về giải pháp, biện pháp kiểm soát quyền lực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 [lần 2] khóa VIII “Về một số vấn đề cấp bách và cơ bản trong công tác xây dựng Đảng hiện nay” đã khẳng định kiểm soát quyền lực là một trong những vấn đề vừa cấp bách, vừa cơ bản lâu dài. Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng yêu cầu: “Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ quan kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất; xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền”[8] và “Hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương”[9]. Điểm qua các nội dung cơ bản, cốt lõi đó để thêm một lần nữa khẳng định, Đảng ta đã thể hiện quyết tâm xây dựng một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả nên đã ngăn chặn có hiệu quả tình trạng lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Để làm cơ sở cho việc kiểm soát quyền lực, Đảng đã lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa quan điểm chỉ đạo của Đảng thành pháp luật nhằm giới hạn và nâng cao tính trách nhiệm của quyền lực nhà nước; đồng thời tạo cơ sở pháp lý giúp người dân tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp một cách hiệu quả; thực hiện sự phối hợp, kết hợp giữa kiểm tra, giám sát trong Đảng, thanh tra của Nhà nước với giám sát, phản biện của các tổ chức xã hội và của người dân. Đó cũng là quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Mặc dù Đảng ta đã chú trọng đến việc hoàn thiện các quy định, quy trình, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; tuy nhiên thời gian qua, quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ nhìn chung chưa được kiểm soát chặt chẽ, thậm chí không ít trường hợp chưa bị kiểm soát và việc lạm quyền, tham nhũng, lợi ích nhóm vẫn tiếp tục có những diễn biến phức tạp, gây bất bình trong xã hội. Dù có nhiều quy định về tiêu chuẩn, về những điều không được làm, về quy trình, quy hoạch khá bài bản, chặt chẽ, nhưng trong chọn lựa cán bộ vẫn còn để xảy ra không ít trường hợp không đủ điều kiện, tiêu chuẩn vẫn được bố trí vào bộ máy lãnh đạo, kể cả ở cấp cao[10].

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên do nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân rất quan trọng là cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa nhận thức và thực hiện đúng quyền hạn của mình được giao, trình trạng vượt quyền hạn, thiếu trách nhiệm hoặc không thực hiện hết quyền hạn trong thực thi nhiệm vụ; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa kiểm soát được việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cấp dưới. Đặc biệt, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa thực sự làm sáng tỏ, tường minh được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về yêu cầu của công cuộc đổi mới.

2. Một số nhiệm vụ quan trọng để thực hiện kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền

Một là, tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn hệ thống chính trị và xã hội về tác hại của sự tha hóa quyền lực, nhất là lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, tham nhũng, lợi ích nhóm. Đồng thời, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến bằng nhiều hình thức thích hợp, thiết thực để cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ các quy định của Đảng, nhất là Quy định số 205-QĐ/TW, về giám sát trong Đảng, về những điều đảng viên không được làm,… Qua đó, tạo sự đồng thuận trong hệ thống chính trị và của nhân dân, góp phần phục vụ đắc lực công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng, Nhà nước.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực trong công tác tổ chức cán bộ thành chính sách, pháp luật; quyền hạn phải được ràng buộc bằng chính sách, pháp luật. Cơ chế kiểm soát quyền lực phải theo hướng đa chiều, đa diện với nhiều kênh khác nhau, như kiểm soát bằng thể chế kết hợp với kiểm soát bằng đạo đức đảng viên, đạo đức công vụ; trách nhiệm giải trình, trách nhiệm công vụ; kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới và ngược lại; kiểm soát chéo giữa các cơ quan, tổ chức; kiểm soát trong Đảng thống nhất lãnh đạo, đồng bộ với kiểm soát của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị; kiểm soát của cơ quan chuyên trách với cơ quan không chuyên trách; kiểm soát của cơ quan quyền lực kết hợp với kiểm soát của báo chí và dư luận xã hội.

Ba là, thực hiện tốt công tác cán bộ, đặc biệt là công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ ở các cấp, các ngành. Công khai, dân chủ, sàng lọc qua các hình thức cạnh tranh trong bầu cử, thi tuyển dựa trên các chuẩn mực, tiêu chí cụ thể, rõ ràng, dưới sự giám sát của nhân dân. Từ đó, sẽ lựa chọn được người có tài, có đức vào các vị trí phù hợp. Các nhà khoa học cho rằng “… bầu cử trong Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để chọn ra người cầm quyền, quyết định sinh mệnh cầm quyền của Đảng. Làm thế nào để chọn được người đủ tâm, đủ tầm, đủ độ tin cậy để thực hiện cầm quyền của Đảng trong bộ máy thực thi quyền lực của nhân dân”[11]. Mặt khác, cần tiếp tục làm rõ, phân định giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể, không để tập thể là nơi để cá nhân thực hiện lợi ích riêng và lợi dụng ý chí tập thể để phục vụ lợi ích nhóm.

Bốn là, xây dựng có hiệu quả các cơ chế kiểm soát quyền lực, nhất là đặt quyền lực vào trong khuôn khổ pháp luật, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, sức mạnh của kỷ luật Đảng và vai trò giám sát của nhân dân. Bên cạnh đó, cần thực hiện nghiêm nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch. Trong công tác cán bộ, cần phải công khai để nhân dân biết, cùng bàn, cùng giám sát, kiểm tra, bởi kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ không chỉ cần có cán bộ, đảng viên, mà cần sự tham gia của người dân. Để làm được điều này, sự giám sát, giúp đỡ của nhân dân, lắng nghe ý kiến nhân dân trong công tác cán bộ là hết sức cần thiết.

Năm là, thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Đây là biện pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Cần quy định rõ tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý các cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tính định lượng cụ thể nhằm tạo ra sự rõ ràng, khách quan, qua đó có cơ sở giám sát, kiểm tra đầy đủ, chính xác. Nhiều đảng viên lão thành cũng cho rằng, công khai quy hoạch, công khai danh sách bầu cử cũng là cách để kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền theo quy định tại Quy định số 205-QĐ/TW[12].

Sáu là, xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ. Cùng với đó, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Đồng thời, siết chặt kỷ luật, kỷ cương; trong xử lý sai phạm phải kịp thời, nghiêm minh, không có “vùng cấm”, không loại trừ bất cứ đối tượng nào, ở bất kỳ cấp nào, giữ bất kỳ cương vị nào. Nếu lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, tham nhũng, lợi ích nhóm trong công tác cán bộ đều phải xử lý nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước./.

---------------------------------

Ghi chú:

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H. 2011, tr.51.

[2] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 1996, tr.786.

[3], [5] Mai Trực, Kiểm soát quyền lực ở nước ta qua công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng, Nxb CTQG, H.2019, tr.13, tr.25.

[4] Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2013, tr.465.

[6], [11], [12] Cần công khai nhân sự trước khi tiến hành Đại hội đại biểu. //www.dangcong san.vn/preview/newid/537104.html

[7] Vũ Ngọc Hoàng, Quyền lực nhất thiết phải được kiểm soát, Tạp chí Cộng sản, số 890 [12/2016], tr. 53.

[8], [9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016, tr.40, tr.47.

[10] Phạm Phương Thảo, Nhận diện rõ để có giải pháp ngăn chặn, xử lý, Báo Tuổi trẻ, số 259, ngày 25/9/2019, tr.3.

Phạm Ngọc Hòa - Học viện Chính trị khu vực IV, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo: //tcnn.vn

Video liên quan

Chủ Đề