Tiêu luận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Academia.edu no longer supports Internet Explorer.

To browse Academia.edu and the wider internet faster and more securely, please take a few seconds to upgrade your browser.

MỤC LỤCLỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MANG THAI HỘ.....................................61.1 SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VẤN ĐỀ MANG THAI HỘ ...........................61.2 KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA CỦA MANG THAI HỘ ........................................................111.2.1 Khái niệm mang thai hộ ............................................................................111.2.2 Ý nghĩa của việc pháp luật cho phép mang thai hộ ..................................161.3 QUY ĐỊNH VỀ MANG THAI HỘ Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .........................171.3.1 Nhóm các quốc gia không quy định về mang thai hộ ...............................191.3.2 Nhóm các quốc gia cấm mang thai hộ ......................................................191.3.3 Nhóm các quốc gia cho phép mang thai hộ ..............................................221.4 MANG THAI HỘ TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM TRƯỚC NGÀY 01 THÁNG 01 NĂM2015 .......................................................................................................................28CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN HÀNHVỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO, THỰC TIỄN ÁP DỤNGVÀ GIẢI PHÁP PHÁP LÝ HOÀN THIỆN..........................................................332.1 PHÁP LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ MANG THAI HỘ VÌMỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO. ............................................................................................332.1.1 Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ...........332.1.2 Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..........................................402.1.2.1 Điều kiện đối với vợ chồng nhờ mang thai hộ....................................402.1.2.2 Điều kiện đối với người được nhờ mang thai hộ ................................432.1.3. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................................462.1.3.1 Nội dung thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..................472.1.3.2 Hình thức thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................492.1.4 Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ ........502.1.4.1 Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .......512.1.4.2 Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo..........................................................................................................................542.1.5 Xác định cha mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..562.1.6 Xử lý hành vi vi phạm về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................602.2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO VÀMỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁP LÝ HOÀN THIỆN. ...............................................................642.2.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ............642.2.2 Vướng mắc bất cập và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý về mang thaihộ vì mục đích nhân đạo.....................................................................................67KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................76LỜI MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tàiGia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyếtthống hoặc quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ vớinhau theo quy định của Luật này Luật Hôn nhân và gia đình năm 20141. Trong đó,quan hệ hôn nhân là một trong những cơ sở quan trọng để hình thành nên gia đình.Bên cạnh việc thực hiện chức năng kinh tế, chức năng giáo dục và đáp ứng nhu cầutâm sinh lý, tình cảm của các thành viên thì chức năng sinh sản, duy trì nòi giốngcũng là một chức năng đặc thù của gia đình.Tuy nhiên, không phải gia đình nào cũng thực hiện được chức năng này mộtcách tự nhiên. Thực tế cho thấy, nhiều cặp vợ chồng vô sinh không thể thực hiệnđược chức năng sinh sản. Có nhiều nguyên nhân để lý giải cho hiện trạng này. Cóthể là vô sinh tự nhiên; do môi trường sống; điều kiện lao động độc hại, nguy hiểm.Ngoài ra lối sống thiếu lành mạnh như nghiện bia rượu, nghiện ma túy, mắc bệnhlây nhiễm qua đường tình dục do quan hệ tình dục không an toàn, biến chứng donạo phá thai... cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên.Có thể nói vô sinh trở thành hiện tượng phổ biến trong xã hội ngày nay. Nó đãvà đang lấy đi của con người nhiều thời gian và tiền bạc, ảnh hưởng rất lớn đếncuộc sống của mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng. Nghiên cứu trên toàn quốc năm2014 do Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Đại học Y Hà Nội tiến hành trên 14.300cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) ở 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh thái ởnước ta cũng xác định tỷ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ là7.7%, nghĩa là có từ 700.000 đến một triệu cặp vợ chồng vô sinh. Trong đó, vô sinhnguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%. Vấn đề vô sinh đang là một gánhnặng của ngành y tế Việt Nam. Đáng báo động, có khoảng 50% cặp vợ chồng vôsinh có độ tuổi dưới 30. Theo tổ chức y tế thế giới, tỷ lệ vô sinh trên thế giới trungbình từ 6%-12%.Vô sinh không chỉ là nỗi lo riêng của một gia đình nào đó mà là nỗi lo chungcủa xã hội. Mặc dù đã có sự tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực y học, một số cặp vợchồng vô sinh đã có thể có con nhờ kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm hay những1Khoản 2 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.1kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác nhưng không phải cặp vô sinh nào cũng may mắn nhưvậy. Những cặp vợ chồng vô sinh thuộc ba nhóm sau đây không thể mang thai vàsinh con một cách bình thường ngay cả khi đã áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ốngnghiệm hay những kỹ thuật hỗ trợ sinh sản khác: Nhóm thứ nhất là nhóm nhữngngười phụ nữ không có tử cung nhưng vẫn có một hoặc cả hai buồng noãn hoạtđộng bình thường, phụ nữ đã bị cắt bỏ tử cung nhưng vẫn giữ lại buồng noãn vì bấtcứ lý do gì; nhóm thứ hai là nhóm những người phụ nữ có tử cung không bìnhthường, có thể là tử cung bị dị dạng, tử cung bị bệnh lý như u xơ hay bệnh về nộimạc...; nhóm thứ ba là nhóm những người phụ nữ có tử cung bình thường nhưngsức khỏe không cho phép để mang thai cụ thể là những người phụ nữ có thể mangthai, nuôi dưỡng thai nhi phát triển nhưng quá trình mang thai ảnh hưởng đến sứckhoẻ của chính mình, phổ biến nhất là những người mắc bệnh tim mạch, suy gan,suy thận…Mong muốn có con của nhiều cặp vợ chồng trở nên bức thiết hơn bao giờ hếtnên những cặp vợ chồng này thường tìm đến những dịch vụ đẻ thuê. Tùy vào điềukiện kinh tế của mỗi gia đình mà họ ra nước ngoài hoặc lén lút thực hiện trongnước. Hiện tượng này dẫn đến nhiều hệ lụy cho bản thân các cặp vợ chồng, chonhững người liên quan và cho cả xã hội. Những biến chứng xảy ra trong quá trìnhmang thai hay sinh nở do không có phương hướng xử lý đúng đắn dẫn đến nhữngthiệt hại về vật chất cũng như tinh thần cho người trong cuộc, không gì có thể đođếm được. Bên cạnh đó, còn có nhiều tranh chấp xảy ra nhưng chưa có cơ sở pháplý để giải quyết.Thấy được những vấn đề phức tạp trên trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình,ngày 01/01/2015, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực thi hành, chínhthức thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Luật mới được Quốc hội nướcCộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam khóa XIII, Kỳ họp thứ 7 thông qua với tỷ lệ79,52% số phiếu tán thành. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho phép mangthai hộ vì mục đích nhân đạo và quy định vấn đề mang thai hộ vì mục đích nhânđạo khá chi tiết, chặt chẽ, có sự liên kết và thống nhất với các chế định khác củaLuật Hôn nhân và gia đình cũng như các quy định của các văn bản pháp luật có liênquan.2Việc luật hóa vấn đề mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay là một bước tiến mới,một sự phát triển trong nhận thức của con người trước những vấn đề đặt ra của đờisống xã hội, đặc biệt là những vấn đề mới phát sinh. Đồng thời nó cũng là mộtthành công lớn trong việc bảo đảm thực thi quyền cơ bản của con người trên mọilĩnh vực của đời sống xã hội. Đây cũng được coi là bước đột phá trong nhận thứcvới sự hòa nhập chung cùng sự phát triển của pháp luật thế giới.Tuy pháp luật đã có quy định chính thức cho phép mang thai hộ vì mục đíchnhân đạo nhưng quy định này còn khá mới mẽ, việc áp dụng quy định của pháp luậtvào thực tiễn còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy, quy định của pháp luật vềmang thai hộ đã đi vào thực tế cuộc sống nhưng bản thân nó vẫn chưa phát huy hếthiệu lực, hiệu quả. Nguyên nhân một phần do những quy định về vấn đề này còn cónhiều điều khó thực hiện. Những quy định về điều kiện mang thai hộ, đối tượngmang thai hộ còn gặp nhiều vướng mắc vì thủ tục phức tạp, thiếu những văn bảnhướng dẫn cụ thể, chi tiết. Do đó, để hiểu rõ hơn về vấn đề này, phát hiện ra đượcnhững điểm chưa phù hợp với thực tiễn để hoàn thiện hơn nữa quy định của phápluật thì vấn đề nghiên cứu sâu hơn nữa về vấn đề mang thai hộ là điều cần thiết.Vì những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo:Pháp luật và thực tiễn áp dụng” để nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp cử nhânluật của mình.2. Tình hình nghiên cứuMặc dù mang thai hộ chỉ mới được quy định chi tiết trong pháp luật hôn nhânvà gia đình từ năm 2014 nhưng đề tài liên quan đến vấn đề này đã được nghiên cứutừ rất sớm và cũng khá nhiều tác giả quan tâm. Có thể kể đến như:- “Một số vấn đề pháp lý về mang thai hộ” của tác giả Trần Thị Hương,Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đăng trên Tạp chí Khoa học pháp lýsố 4 năm 2001.- “Vấn đề xác định cha mẹ con và mang thai hộ theo dự thảo Luật Hôn nhânvà gia đình sửa đổi” của tác giả Nguyễn Thị Lan đăng trên tạp chí Dân chủ và phápluật số 05 năm 2014.- “Cho phép mang thai hộ - nhân đạo nhưng còn nhiều vướng mắc” của tácgiả Ngô Thị Hồng Ánh đăng trên Tạp chí Luật sư Việt Nam, Liên Đoàn Luật sưViệt Nam số 5 năm 2015.3- “Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh” của tác giả Nguyễn Thị Lan đăngtrên tạp chí Luật học số 4 năm 2015.- “Quy định về mang thai hộ - một nội dung mới trong Luật Hôn nhân và giađình năm 2014” của tác giả Nguyễn Quế Anh đăng trên tạp chí Dân chủ và phápluật số 8 (281) năm 2015.- “Quy định về mang thai hộ - điểm mới trong Luật Hôn nhân và gia đình năm2014” của tác giả Nguyễn Văn Lâm đăng trên tạp chí Quản lý Nhà nước – Học việnHành chính số 237.- “Một số vấn đề về thực hiện quy định của pháp luật hiện hành về mang thaihộ ở Việt Nam” của tác giả Ths.Trần Đức Thắng đăng trên tạp chí Nghề Luật số 2năm 2016.- Ngoài ra, hai khóa luận tốt nghiệp của sinh viên trường Đại học Luật thànhphố Hồ Chí Minh về vấn đề này đó là Khóa luận “Pháp luật mang thai hộ tại ViệtNam và một số kiến nghị hoàn thiện” của tác giả Trần Thị Phương Thanh năm 2014và Khóa luận “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo pháp luật Hôn nhân và giađình” của tác giả Vũ Huy Cường năm 2015.Các tác giả trên nghiên cứu, phân tích và bày tỏ quan điểm của mình về điềukiện mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của các bên, thỏa thuận mang thai hộ, xácđịnh cha mẹ con trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo khi vấn đề mangthai hộ vì mục đích nhân đạo chưa được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đìnhnăm 2014; chỉ mới tồn tại trong dự thảo luật hay chỉ mới có hiệu lực ban hành màchưa tìm hiểu cụ thể thực tiễn áp dụng quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạotrong thời gian Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực pháp luật. Mặc dùmỗi tác giả đã nghiên cứu những khía cạnh nhất định về vấn đề mang thai hộ nhưngđề tài mang thai hộ không mất đi tính thời sự của nó và còn ẩn chứa nhiều bất cậpkhi áp dụng vào thực tiễn nên việc tác giả chọn đề tài liên quan đến vấn đề này đểnghiên cứu là cần thiết.3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề liên quan đến mang thai hộvì mục đích nhân đạo dưới góc độ pháp lý và thực tiễn.Mang thai hộ là một hiện tượng xã hội tương đối phức tạp và nhạy cảm, liênquan đến nhiều lĩnh vực như y tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, phong tục truyền4thống… Tuy nhiên trong phạm vi khóa luận này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứuvấn đề mang thai hộ vì mục đích nhân đạo dưới khía cạnh pháp lý trong khuôn khổquy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.4. Phƣơng pháp nghiên cứuĐề tài tiến hành nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vậtbiện chứng và lịch sử của học thuyết Mác-Lênin. Theo đó, việc nghiên cứu luôn gắnliền giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề, phương pháp này được áp dụngxuyên suốt đề tài.Ngoài ra, tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích (khi tiến hành làm rõ cáckhái niệm, các nguyên nhân, những quy định của pháp luật…); phương pháp bìnhluận (khi đưa ra những quan điểm cá nhân về những điểm bất cập hay có nhữngquan điểm trái chiều cần làm rõ…); phương pháp so sánh (so sánh quy định phápluật của các nước hay quy định pháp luật của các nước trên thế giới với pháp luậtcủa Việt Nam về vấn đề mang thai hộ) và phương pháp tổng hợp (tổng hợp lạinhững quan điểm, những vấn đề đã nêu để đưa ra những kết luận).5. Cấu trúc chung của khóa luậnĐề tài được trình bày thành hai chương với nội dung và bố cục như sau:Chương 1: Lý luận chung về mang thai hộChương này tác giả tập trung làm rõ sự hình thành và phát triển của vấn đềmang thai hộ trong nước và ngoài nước, phân tích khái niệm mang thai hộ, đưa ra ýnghĩa của việc cho phép mang thai hộ đồng thời phân tích mức độ cho phép mangthai hộ ở một số quốc gia trên thế giới và ở Việt Nam.Chương 2: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành về mang thaihộ vì mục đích nhân đạo, thực tiễn áp dụng và giải pháp pháp lý hoàn thiện.Chương này là phần trọng tâm của đề tài. Tác giả tập trung phân tích các quyđịnh trong Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luậtcó liên quan về vấn đề mang thai hộ. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháppháp lý hoàn thiện từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về mang thai hộvì mục đích nhân đạo.5CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ MANG THAI HỘ1.1 Sự hình thành và phát triển của vấn đề mang thai hộMang thai hộ trở thành một hiện tượng của thế giới vào thập niên 70 của thếkỷ XX. Tuy nhiên theo nhiều nguồn thông tin, việc mang thai hộ và đẻ con chongười khác đã xuất hiện từ rất lâu. Theo tờ Newsweek, mô hình thụ tinh trong ốngnghiệm (IVF) mới xuất hiện từ những năm 1970 nhưng ý tưởng về việc một phụ nữmang bầu cho một người mẹ khác đã là chuyện rất xưa. Mang bầu và đẻ thay ngườikhác đã được nêu trong Bộ luật Hammurabi – một bộ luật cổ xưa nhất thế giới, rađời dưới thời vua thứ 6 của Vương quốc Babylon là Hammurabi (1792-1750 TCN)và được nhắc một vài lần trong Kinh thánh của đạo Do Thái (Hebrew Bible).Ngoài ra, trong chương thứ 16 của sách sáng thế Genesis có nói rằng bà Sarahkhông có khả năng sinh con đã gửi người hầu Hagar của mình tới chỗ chồng làAbraham để Hagar mang thai cho vợ chồng bà. Sau này, Jacob cũng làm cha củanhững đứa con do các người hầu của hai bà vợ Leah và Rachel sinh ra2.Ngoài ra, ở Mỹ vào thời kỳ Nội chiến (vào khoảng những năm 1860), nhữngnô lệ người Mỹ gốc Phi đã bị buộc phải trở thành người mang thai hộ cho chủ sởhữu của họ. Một trong những trường hợp đáng chú ý tại Ilinois (Mỹ), một nữ nô lệđã bị bắt và bán lại cho chủ nô ở Misissippi, cô mang thai với ông chủ và khi sinh rabé gái bị buộc phải trao cho gia đình chủ nô. Sau đó, cô đã khởi kiện ra Tòa và đãthắng kiện, nhờ đó lần đầu tiên cô có được tự do và quyền chăm sóc, giám hộ đứacon gái của mình, cô được mọi người biết đến với cái tên “the Black surrogatemother”3.Trong giai đoạn đầu của sự hình thành và phát triển, mang thai hộ được hiểutheo nhiều nghĩa khác nhau. Cách nhìn nhận đơn giản nhất, mang thai hộ là việcmột người phụ nữ mang thai và sinh con cho một cặp vợ chồng mà người vợ khôngthể mang thai và đẻ con, dù tự nguyện hay bị ép buộc và sau đó giao lại con cho cặpvợ chồng ấy. Chính vì khái niệm đó nên khái niệm về mang thai hộ gần tương đồng2“Dịch vụ đẻ thuê trên thế giới – Bài 1: Bùng nổ hiện tượng đẻ thuê”,http://sggp.org.vn/hosotulieu/2008/7/158303/, truy cập ngày 12/05/2016.3Carla Spivack (2010), “The law of Surogate motherhood in the United States”, TheAmerican journal of comparative Law (58), p.98.6với khái niệm “đẻ mướn”, “đẻ giúp”. Người ta chỉ quan tâm đến yếu tố có sự thaythế của một người phụ nữ khác (thường được gọi là người mẹ thay thế - thesurrogate mother) trong quá trình tạo ra đứa bé.Trong giai đoạn này, đứa bé sinh ra mang gen di truyền của người cha sinhhọc (the biological father) và người mẹ thay thế (the surrogate mother) mà khôngmang gen của người mẹ sinh học (the biological mother) bởi vì việc mang thai hộlúc này được thực hiện bằng cách người vợ không thể mang thai đồng ý để ngườichồng quan hệ trực tiếp với người phụ nữ mang thai hộ.Việc mang thai hộ theo cáchnày chứa đựng nhiều rủi ro. Mặc dù đem lại cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộmột đứa con như mong muốn của họ nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ hạnh phúc gia đìnhcủa họ bị tan vỡ bởi quan hệ tình cảm giữa người chồng và người phụ nữ mang thaihộ cũng như các nguy cơ khác…Về sau, khi khoa học và công nghệ tiến bộ, đặc biệt là những bước tiến tronglĩnh vực y học cũng có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển của mang thai hộ.Bước tiến mới trong lĩnh vực y học đầu tiên có thể kể đến phương pháp thụtinh trong ống nghiệm – IVF (In – vitro Fertilization) được phát triển bởi RobertGeofrey Edwards và đồng nghiệp Patrick Steptoe. Robert Geofrey Edwards là nhà yhọc người Anh và được coi là cha đẻ của phương pháp này, người đã tạo ra một“cuộc cách mạng” trong việc hỗ trợ sinh sản trên thế giới.Và thành tựu đầu tiên khi ứng dụng phương pháp này vào thực tế cuộc sốngđó là giúp cho cặp vợ chồng Lesley và John Brown có một đứa con. Cặp vợ chồngnày không thể có con, đã tìm mọi cách để thụ thai trong chín năm nhưng khôngthành công bởi vì ống dẫn noãn của Lesley bị tắt. Ngày 10 tháng 11 năm 1977, cặpvợ chồng này đã trải qua quy trình thụ tinh trong ống nghiệm. Ngày 25 tháng 7 năm1978, Louise Joy Brown là con của cặp vợ chồng này được sinh ra bằng con đườngsinh mổ lấy thai tại bệnh viện đa khoa Oldham, Oldham, Greater Manchester, Anh.Louise Joy Brown là em bé đầu tiên trên thế giới sinh ra nhờ phương pháp thụ tinhtrong ống nghiệm. Bốn năm sau, em gái của cô là Natalie Brown cũng được sinh rabằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm và trở thành em bé thứ bốn mươi trênthế giới sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm nhưng lại là em bé đầu7tiên trên thế giới được thụ tinh trong ống nghiệm và được sinh ra bằng con đườngsinh tự nhiên vào năm 19994.Việc tìm ra phương pháp sinh sản bằng thụ tinh trong ống nghiệm đã đánh dấubước ngoặt làm thay đổi cách thức thực hiện mang thai hộ. Giờ đây, người cha sinhhọc không còn quan hệ trực tiếp với người mẹ thay thế mà người này sẽ cung cấptinh trùng, người mẹ sinh học sẽ cung cấp noãn của mình hoặc noãn của người phụnữ khác, thậm chí có thể là noãn của người mẹ thay thế. Sau đó, noãn và tinh trùngnày được cấy trong môi trường ống nghiệm để tạo thành phôi, phôi được cho vào tửcung của người mẹ thay thế. Người mẹ thay thế mang thai và đẻ con. Sau đó giaolại đứa bé cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ.Như vậy, với sự phát triển của y học, mang thai hộ được biết đến với hai hìnhthức, đó là: mang thai hộ một phần (Partial surrogacy) hay mang thai hộ truyềnthống (Traditional surrogacy) và mang thai hộ hoàn toàn (Full surrogacy). Cả haihình thức mang thai hộ này đều áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.Mang thai hộ một phần được tiến hành bằng cách cấy tinh trùng của người chasinh học với noãn của người mẹ thay thế để tạo thành phôi thai, phôi này cho vào tửcung của người mẹ thay thế.Theo các tài liệu y học ghi nhận thì trường hợp mang thai hộ áp dụng kỹ thuậtthụ tinh trong ống nghiệm đầu tiên trên thế giới xảy ra cách đây hơn 30 năm. Năm1979, một cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai trong nhiều năm đã đếnvà tìm gặp bác sĩ Richard M.Levin. Hiểu được mong muốn có một đứa con của cặpvợ chồng này, bác sĩ nghĩ đến phương án nhờ một phụ nữ khác mang thai và sinhcon bằng cách lấy noãn của người phụ nữ đó cấy với tinh trùng của người chồng.Tuy nhiên, để thực hiện được ý định này, ông phải mất chín tháng hợp tác với cácluật sư, nghiên cứu pháp luật của các bang và liên bang Hợp chúng quốc Hoa Kỳ(Mỹ) để nắm được các khía cạnh pháp lý liên quan đến vấn đề mang thai hộ (còngọi là “làm mẹ thuê”, “đẻ thuê”). Ông cũng tham khảo ý kiến của nhiều nhà chứcsắc tôn giáo và nhà xã hội học liên quan đến các khía cạnh về đạo lý của mối quanhệ mang thai hộ để đi đến một thỏa thuận không xúc phạm đến giá trị đạo đức củacộng đồng. Sau khi nắm rõ các khía cạnh pháp lý và các khía cạnh đạo lý, một “hợp4https://vi.wikipedia.org/wiki/Louise_Brown, truy cập ngày 14/5/2016.8đồng” hay còn gọi với tên gọi khác “biên bản ghi nhớ” đã được soạn thảo chặt chẽđể đảm bảo quyền lợi cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, người phụ nữ mang thaihộ và đặc biệt là đứa trẻ. Theo đúng thỏa thuận ghi trong hợp đồng, người ta tiếnhành thụ tinh nhân tạo vào năm 1980. Trải qua thời kỳ mang thai, người phụ nữ nàysinh ra một em bé khỏe mạnh. Năm ngày sau, người phụ nữ mang thai hộ đã trìnhdiện trước Tòa án để chính thức chấm dứt những quyền liên quan đến việc làm mẹcủa mình và trao lại con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Sau thành công này,bác sĩ Levin đã được nhiều người biết đến. Nhưng ông cũng phải giải trình vấn đềnày trước một Ủy ban của Thượng viện Mỹ cũng như trước nhiều cơ quan pháp lýcủa nhiều bang khác. Với những cố gắng của ông, khái niệm “làm mẹ thuê” đã dầndần được thế giới chấp nhận. Quy trình và cách thức tiến hành mẫu về việc làm mẹthuê do Levin soạn thảo đã được các cơ sở có dịch vụ này trên toàn thế giới ápdụng. Năm 1981, Hội hoạt động cho công nghệ mang thai hộ (Surrogate ParentingAssociates) đã chính thức được thành lập ở bang Kentucky do bác sĩ Levin đứngđầu5. Đây là trường hợp mang thai hộ một phần hợp pháp, được chuẩn bị kỹ lưỡngđầu tiên trên thế giới và không có tranh chấp liên quan đến vấn đề nuôi dưỡng embé sau khi sinh.Tuy nhiên, trường hợp em bé Melissa Stern trong vụ án Baby M, 573 A.2d1227, 109 N.J. 396 (N.J. 02/03/1988), một trong những vụ án đầu tiên gây nên sựquan tâm đặc biệt của báo chí lẫn giới học giả trên thế giới về những tranh cãi pháplý liên quan đến vấn đề mang thai hộ, mặc dù được chuẩn bị kỹ lưỡng, có hợp đồngchặt chẽ nhưng lại phát sinh tranh chấp.William Stern và Elizabeth Stern là một cặp vợ chồng có nghề nghiệp ổn địnhsống ở Tenafly, tiểu bang New Jersey, Mỹ. Elizabeth Stern không vô sinh nhưng côlo ngại chứng tê liệt tạm thời mà cô đang mang trong người sẽ ảnh hưởng, tác độngtrong thời kì mang thai nên vợ chồng cô đã liên lạc với một trung tâm chữa bệnh vôsinh có cung cấp dịch vụ mang thai hộ ở Asbury Park Pres, New York. Trung tâmnày đã đưa tin quảng cáo tìm kiếm người phụ nữ mang thai hộ cho vợ chồng5BS. Đào Xuân Dũng, “Sự ra đời của công nghệ mang thai hộ”, xem tạihttp://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/su-ra-doi-cua-cong-nghe-mang-thai-ho2259855.html, truy cập ngày 15/5/2016.9William Stern và Elizabeth Stern và sẽ trả tiền công cho người này khi người nàygiao lại đứa trẻ cho cặp vợ chồng William Stern và Elizabeth Stern. Mary BethWhitehead là người phụ nữ hai mươi chín tuổi và đã có hai con đã phản hồi, chấpnhận mang thai hộ cho cặp vợ chồng William Stern và Elizabeth Stern. Vợ chồngWilliam Stern và Elizabeth Stern đã ký một hợp đồng mang tên “hợp đồng đẻ thuê”với Mary Beth Whitehead, theo đó noãn của Mary Beth Whitehead sẽ được thụ tinhvới tinh trùng của William. Cô sẽ mang thai và sinh con, sau đó chuyển giao đứa trẻcho vợ chồng William Stern và Elizabeth Stern và từ bỏ quyền làm mẹ, đổi lại cônhận được mười ngàn đô la Mỹ cùng các chi phí y tế khác. Ngày 27 tháng 3 năm1986, Mary Beth sinh ra một bé gái, gia đình Stern đặt tên là Melissa Stern. Tuynhiên, lúc này Mary Beth lại không muốn giao đứa trẻ nên cô đã mang đứa trẻ bỏtrốn qua Florida. William Stern và Elizabeth Stern đã kiện ra Tòa án để được côngnhận là cha mẹ hợp pháp của đứa trẻ. Cuộc đấu tranh giành quyền nuôi đứa trẻ diễnra ở Tòa án bang New Jersey.Vào thời điểm đó, tiểu bang New Jersey chưa có quy định cấm hay cho phépmang thai hộ. Thẩm phán Tòa sơ thẩm R.Harvey Sorknow đã viện dẫn tính ràngbuộc của hợp đồng để bắt buộc thực hiện các thỏa thuận đã giao kết trong hợp đồng,trao quyền nuôi dưỡng Melissa Stern cho vợ chồng William Stern và ElizabethStern. Không đồng ý với phán quyết của Tòa sơ thẩm, Mary Beth Whitehead đã xinphúc thẩm bản án ở Tòa tối cao bang New Jersey. Chánh án Tòa án tối cao RobertWilentz đã xem xét và quyết định theo hướng hợp đồng mang thai hộ vô hiệunhưng vẫn trao quyền nuôi Melissa Stern cho vợ chồng William Stern và ElizabethStern vì cho rằng điều này sẽ tốt hơn cho Melissa đồng thời vẫn xác nhận quyềnthăm con cho Mary Beth Whitehead6.Trong vụ án này, việc mang thai hộ của Mary Beth Whitehead là trường hợpmang thai hộ một phần nên về mặt sinh học, Mary Beth Whitehead vẫn là mẹ củaMelissa Stern, không có Tòa án nào có thể tước bỏ đi quyền làm mẹ của Mary BethWhitehead.Cùng với sự phát triển của kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm thì khái niệmmang thai hộ hoàn toàn ra đời. Mang thai hộ hoàn toàn được tiến hành bằng cách6Michael J.Sandel (2014), “Phải trái đúng sai”, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.136.10thay vì sử dụng noãn của người mẹ thay thế, phương pháp này lại dùng noãn củachính người mẹ sinh học hay noãn của một người phụ nữ khác (không phải là noãncủa người mẹ thay thế) để kết hợp với tinh trùng của người cha sinh học tạo thànhphôi thai, phôi này sau đó được cho vào tử cung của người mẹ thay thế.Ưu điểm nổi trội của mang thai hộ hoàn toàn so với mang thai hộ một phần lànó loại trừ được mối quan hệ huyết thống giữa đứa trẻ sinh ra với người mẹ thaythế. Tuy nhiên, hình thức mang thai hộ hoàn toàn này vẫn có mặt hạn chế. Nó tácđộng mạnh mẽ làm cho mang thai hộ trở thành một nghành kinh doanh theo chiềuhướng trầm trọng hơn về mặt đạo đức như xuất hiện thị trường buôn bán tinh trùnghay noãn phục vụ cho nhu cầu mang thai hộ, những trung tâm môi giới cho hành vinày… đồng thời còn gây ra nhiều tranh cãi về mặt pháp lý xung quanh việc có nênhay không nên công nhận hợp đồng mang thai hộ có tính chất thương mại.Như vậy có thể thấy mang thai hộ đã hình thành từ rất lâu trong lịch sử, sựphát triển của nó gắn liền với sự phát triển của nghành y học. Tuy nhiên cho đếnnay, việc mang thai hộ được áp dụng trong cuộc sống thì chưa thật sự hiệu quả, nóvẫn còn là vấn đề giành nhiều sự quan tâm của nhiều nhà lập pháp trên thế giới,trong đó có Việt Nam.1.2 Khái niệm, ý nghĩa của mang thai hộ1.2.1 Khái niệm mang thai hộDưới những góc độ tiếp cận khác nhau thì mang thai hộ có những khái niệmkhác nhau. Để hiểu một cách đầy đủ và rõ ràng về mang thai hộ, tác giả tập trungnghiên cứu khái niệm mang thai hộ dưới ba góc độ: góc độ xã hội, góc độ y học vàgóc độ pháp lý.Dƣới góc độ xã hộiDưới góc độ xã hội, mang thai hộ được xếp vào loại hình “đẻ mướn” và baogồm hai hình thức là: “đẻ mướn truyền thống” và “thai đẻ mướn”.Hình thức “đẻ mướn truyền thống” được hiểu là noãn của người phụ nữ mangthai hộ sẽ thụ tinh trong ống nghiệm cùng với tinh trùng của người chồng trong cặpvợ chồng vô sinh để tạo thành phôi thai. Sau đó, phôi này cho vào tử cung củangười phụ nữ mang thai hộ để người phụ nữ này mang thai và sinh con cho cặp vợchồng trên. Đứa trẻ sinh ra mang gen di truyền của người chồng và người phụ nữmang thai hộ.11Còn hình thức “thai đẻ mướn” thì đứa trẻ sinh ra không mang gen di truyềncủa người chồng và người phụ nữ mang thai hộ mà mang gen di truyền của cặp vợchồng nhờ mang thai hộ. Bởi vì, hình thức “thai đẻ mướn” đó là việc thụ tinh trongống nghiệm noãn và tinh trùng của chính cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ để tạothành phôi thai. Sau đó, phôi này cho vào tử cung của người phụ nữ mang thai hộđể mang thai và sinh con.Như vậy, theo góc độ xã hội, mang thai hộ là một hiện tượng nảy sinh, tồn tạivà phát triển trong đời sống của con người. Nó phản ánh mối quan hệ chặt chẽ,không thể tách rời của ba chủ thể: cặp vợ chồng vô sinh nhờ mang thai hộ - ngườiphụ nữ mang thai hộ - đơn vị hỗ trợ sinh sản.7Dƣới góc độ y họcMang thai hộ được hiểu là việc một người phụ nữ mang thai và sinh con chocặp vợ chồng vô sinh có áp dụng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.Có hai hình thức mang thai hộ: mang thai hộ một phần và mang thai hộ toànphần.Mang thai hộ một phần được tiến hành bằng cách kết hợp tinh trùng của ngườicha sinh học với noãn của người mẹ thay thế để tạo thành phôi thai, việc thụ tinh đểtạo thành phôi này có thể được tiến hành trong ống nghiệm.Mang thai hộ toàn phần là việc sử dụng một trong ba cách sau đây để thụ tinhtrong ống nghiệm tạo thành phôi thai:- Tinh trùng của người chồng kết hợp với noãn của người vợ.- Hoặc tinh trùng của người chồng kết hợp với noãn do người phụ nữ kháchiến tặng (người phụ nữ này không phải là người phụ nữ mang thai hộ) trong trườnghợp người vợ không có noãn.- Hoặc tinh trùng và noãn của người khác hiến tặng trong trường hợp cả vợ vàchồng không thể cung cấp noãn và tinh trùng.Sau khi phôi thai được tạo thành mới thực hiện cấy vào tử cung của người phụnữ mang thai hộ.7Trần Thị Phương Thanh (2014), “Pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam và một số kiếnnghị hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp”, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.1012Dù là áp dụng hình thức mang thai hộ toàn phần hay mang thai hộ một phầnthì người vợ cũng phải đáp ứng điều kiện về tình trạng sức khỏe, cụ thể thuộc mộttrong ba nhóm sau đây:- Nhóm thứ nhất là nhóm những người phụ nữ không có tử cung nhưng vẫn cómột hoặc cả hai buồng noãn hoạt động bình thường, phụ nữ đã bị cắt bỏ tử cungnhưng vẫn giữ lại buồng noãn vì bất cứ lý do gì- Nhóm thứ hai là nhóm những người phụ nữ có tử cung không bình thường,có thể là tử cung bị dị dạng, tử cung bị bệnh lý như u xơ hay bệnh về nội mạc...- Nhóm thứ ba là nhóm những người phụ nữ có tử cung bình thường nhưngsức khỏe không cho phép để mang thai cụ thể là những người phụ nữ có thể mangthai, nuôi dưỡng thai nhi phát triển nhưng quá trình mang thai ảnh hưởng đến sứckhoẻ của chính mình, phổ biến nhất là những người mắc bệnh tim mạch, suy gan,suy thận…Theo các chuyên gia y tế, việc mang thai hộ chỉ là biện pháp “mượn bụng” củangười khác làm “vườn ươm” thai nhi. Người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mangthai hộ không quan hệ trực tiếp với người phụ nữ mang thai hộ mà chỉ cung cấp tinhtrùng để thụ tinh trong ống nghiệm cùng noãn của người vợ để tạo thành phôi thairồi cấy vào tử cung của người phụ nữ này.Dƣới góc độ pháp lýVấn đề mang thai hộ đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới. Tuy nhiên các quốcgia lại không đưa ra khái niệm mang thai hộ trong các đạo luật hay các văn bản quyphạm pháp luật của nước mình.Về sau, khi khái niệm mang thai hộ xuất hiện thì khái niệm này lại có sự khácnhau giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ. Sự khác nhau này là do mỗi quốc gia,mỗi vùng lãnh thổ có thể chế chính trị, điều kiện kinh tế, tôn giáo, phong tục tậpquán, mức độ cho phép mang thai hộ khác nhau…Ở một số quốc gia, mang thai hộ được hiểu như là một dịch vụ “đẻ thuê”. Đểràng buộc về mặt pháp lý, cặp vợ chồng vô sinh giao kết với người phụ nữ mangthai hộ một hợp đồng dịch vụ. Trong trường hợp này, mang thai hộ là vì mục đíchthương mại. Ở một số quốc gia khác thì mang thai hộ lại mang tính chất, mục đíchnhân đạo, không phải là một hợp đồng dịch vụ và không vì mục đích thương mại.Người phụ nữ tự nguyện và không vì mục đích thương mại mang thai hộ cặp vợ13chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con. Cũng có một số quốc gia,phạm vi mang thai hộ rất rộng, không chỉ là câu chuyện dành cho cặp vợ chồng màngười vợ không thể mang thai mà còn dành cho những ông bố, bà mẹ đơn thân haynhững cặp đồng tính muốn trở thành cha mẹ8.Ở Việt Nam, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được Quốc hội khóa Xthông qua tại kỳ họp thứ 7 trên cơ sở kế thừa Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959và năm 1986 không ghi nhận vấn đề mang thai hộ. Đến ngày 12 tháng 02 năm2003, Nghị định 12/2003/NĐ-CP của Chính Phủ về sinh con theo phương phápkhoa học được ban hành thì thuật ngữ “mang thai hộ” được đề cập. Tuy nhiên, Nghịđịnh này không đưa ra khái niệm mang thai hộ mà chỉ dự liệu “cấm mang thai hộ”.Cụ thể, tại Khoản 1 Điều 6 Nghị định này quy định nghiêm cấm hành vi mang thaihộ, không phân biệt là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hay mang thai hộ vì mụcđích thương mại.Tuy nhiên, sau 15 năm áp dụng quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm2000, với thực tiễn khoa học ngày càng phát triển, Bộ Y Tế đã đề xuất xem xét bỏquy định cấm mang thai hộ tại Việt Nam và quy định cho phép mang thai hộ cũngnhư cơ chế kiểm soát chặt chẽ các trường hợp này vào năm 2011. Trên cơ sở đó,ngày 19 tháng 6 năm 2014, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIII đã thông qua LuậtHôn nhân và gia đình năm 2014 thay thế cho Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng không có quy định nào về khái niệmmang thai hộ mà chỉ ghi nhận khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo vàmang thai hộ vì mục đích thương mại.Cụ thể, Khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:“Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vìmục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thểmang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấynoãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sauđó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thaivà sinh con”. Về khái niệm mang thai hộ vì mục đích thương mại, Khoản 23 Điều 38Trần Thị Phương Thanh (2014), “Pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam và một số kiếnnghị hoàn thiện”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.1114của Luật này quy định: “Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc một ngườiphụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đểđược hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.”Hai khái niệm trên chỉ khác nhau về mục đích mang thai hộ đó là vì mục đíchnhân đạo hay mục đích thương mại còn về bản chất hành vi mang thai hộ thì khôngkhác nhau. Do đó, khái niệm mang thai hộ có thể hiểu đó là sự kiện pháp lý phátsinh dựa trên việc một người phụ nữ giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợkhông thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằngviệc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ốngnghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để ngườinày mang thai và sinh con.Mặc dù Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định về vấn đề mang thaihộ nhưng phạm vi, chủ thể và mục đích trong quan hệ mang thai hộ hẹp hơn so vớicác quốc gia khác trên thế giới. Sự giới hạn về cơ chế pháp lý này thể hiện:- Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ chỉ có thể là một cặp vợ chồng đang tồn tạiquan hệ hôn nhân hợp pháp. Pháp luật Việt Nam không cho phép cặp vợ chồngđồng tính, song tính; cặp vợ chồng chuyển giới; các ông bố, bà mẹ đơn thân đượcnhờ mang thai hộ.- Thứ hai, người vợ trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ không thể mang thaivà sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.- Thứ ba, chỉ được sử dụng noãn và tinh trùng của cặp vợ chồng nhờ mang thaihộ để thụ tinh trong ống nghiệm mà không được sử dụng noãn và tinh trùng củangười khác hiến tặng.- Cuối cùng, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt nam chỉ thừa nhận người phụnữ tự nguyện mang thai hộ vì tinh thần tương trợ, giúp đỡ chứ không vì lợi ích vậtchất.Thiết nghĩ, pháp luật Việt Nam quy định như vậy là phù hợp với bối cảnh đờisống xã hội, kinh tế, phong tục tập quán, truyền thống đạo đức ở Việt Nam vào thờiđiểm hiện tại. Vì trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời thì pháp luậtcấm hành vi mang thai hộ và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 là văn bản pháplý đầu tiên thừa nhận và cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Do đó, các15nhà làm luật cần thiết thận trọng đưa ra những quy định chặt chẽ để pháp luật đi vàocuộc sống.Như vậy, dù tiếp cận ở góc độ xã hội, góc độ y học hay góc độ pháp lý thì kháiniệm mang thai hộ đều mang một ý nghĩa chung nhất đó là việc áp dụng kỹ thuậtthụ tinh trong ống nghiệm noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng trongcặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai để tạo thành phôi, sau đó cho vàotử cung của một người phụ nữ tự nguyện thực hiện mang thai và sinh con giúp cặpvợ chồng này.1.2.2 Ý nghĩa của việc pháp luật cho phép mang thai hộKhi nói đến hôn nhân, ta thường nói đến quan hệ giữa vợ và chồng. Khi nóiđến gia đình, không thể không bàn đến quan hệ giữa cha, mẹ và con. Gia đình là tếbào của xã hội. Khi gia đình hạnh phúc thì xã hội mới ổn định. Nhưng hiện nay vôsinh lại đang lấy đi hạnh phúc của rất nhiều gia đình. Do đó, vô sinh không còn lànỗi lo riêng của mỗi gia đình mà còn là nỗi lo chung của toàn xã hội.Từ những năm 2000, Việt Nam là một trong những nước áp dụng thành côngkỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF – InVitro Fertilisation). Phương pháp này đã mang lại niềm hi vọng cho các cặp vợchồng vô sinh hiến muộn, đem lại niềm vui cho nhiều gia đình. Tuy nhiên, nó chỉ cóthể áp dụng cho các cặp vợ chồng không thể mang thai một cách bình thường, cònnhững cặp vợ chồng khác, những người bị dị tật hoặc có vấn đề về sức khỏe thì bảnthân họ không thể áp dụng phương pháp này, mặc dù họ có đủ điều kiện để trởthành cha mẹ. Mãi đến khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực chophép mang thai hộ đã đem lại một niềm hi vọng trở thành cha mẹ cho nhiều cặp vợchồng.Về mặt xã hội:- Mang thai hộ mang lại cho các cặp vợ chồng vô sinh một cơ hội trở thànhcha thành mẹ, đem lại hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Được làm mẹ là một quyềnthiêng liêng mà tạo hóa đã ban tặng cho người phụ nữ. Nhưng không may họ lại bịnhững khiếm khuyết về khả năng sinh sản. Mang thai hộ mang đến một cơ hội đểnhững cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con này được trởthành cha mẹ. Ngoài ra, qua một số nghiên cứu cũng cho thấy, vợ chồng không thểcó con chung cũng là một trong những lý do dẫn đến ly hôn. Như vậy, pháp luật cho16phép mang thai hộ không những mang lại hạnh phúc, đảm bảo chức năng duy trì nòigiống mà còn góp phần giữ vững mối quan hệ hôn nhân cho mỗi gia đình.- Đồng thời mang thai hộ còn thể hiện tính nhân văn sâu sắc đó là sự giúp đỡcủa những người phụ nữ với nhau trong xã hội để thực hiện quyền làm mẹ. Sự giúpđỡ này xuất phát từ sự đồng cảm, chia sẻ sâu sắc giữa người phụ nữ trong xã hộiloài người.- Không dừng lại ở đó, mang thai hộ góp phần mang lại cho xã hội những thếhệ tương lai, nguồn nhân lực để phát triển kinh tế cho đất nước. Ngoài ra, còn gópphần ổn định xã hội, hạn chế được tình trạng ly hôn giữa các cặp vợ chồng chỉ vìkhông thể có con. Thêm vào đó, mang thai hộ có sự hỗ trợ của kỹ thuật thụ tinhtrong ống nghiệm là một thành tựu trong lĩnh vực y học, từ những thành tựu nhưvậy sẽ là động lực cho sự phát triển hơn nữa trong lĩnh vực này.Về mặt pháp luật, việc quy định chặt chẽ vấn đề mang thai hộ trong hệ thốngpháp luật có ý nghĩa đáng ghi nhận:- Thứ nhất, pháp luật về mang thai hộ tạo khung pháp lý an toàn trong các giaodịch mang thai hộ và có cơ chế phân biệt được các hình thức mang thai hộ để cóhướng xử lý thích hợp khi có sự vi phạm; giúp các cơ quan chức năng có thể kiểmsoát được một phần nào đó thực trạng mang thai hộ hiện nay.- Thứ hai, pháp luật về mang thai hộ bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em,tránh tình trạng lạm dụng phụ nữ để phục vụ cho các dịch vụ đẻ thuê một cách trànlan, không chỉ gây ra thiệt hại về thể chất mà còn thiệt hại về tinh thần cho ngườiphụ nữ. Đồng thời, pháp luật cho phép mang thai hộ cũng tạo ra một cơ chế để bảovệ những đứa trẻ được sinh ra, tránh tình trạng bị bỏ rơi hoặc những tranh chấp liênquan đến quyền nuôi dưỡng.- Thứ ba, khi được pháp luật điều chỉnh thì các bên sẽ có cơ sở pháp lý chặtchẽ hơn để ràng buộc lẫn nhau, tránh tình trạng vi phạm như không trả con hoặckhông nhận con hay những tranh chấp liên quan đến những nội dung thỏa thuậnmang thai hộ… góp phần thực hiện tốt hơn công tác quản lý nhà nước trong lĩnhvực hôn nhân và gia đình.1.3 Quy định về mang thai hộ ở một số nƣớc trên thế giớiĐến nay, mặc dù vấn đề mang thai hộ không còn là vấn đề mới mẻ nhưng vẫnthu hút nhiều sự quan tâm. Xuất phát từ sự khác biệt về thể chế chính trị, về văn17hóa- xã hội, về phong tục tập quán… mà mỗi quốc gia có những cách nhìn nhận,đánh giá khác nhau để có những quy định pháp luật khác nhau về vấn đề mang thaihộ. Thậm chí, ngay cả trong pháp luật của một quốc gia cũng có sự khác biệt. Cụthể trong pháp luật Hoa Kỳ có sự mâu thuẫn trong pháp luật của Bang và pháp luậtcủa tiểu bang hay pháp luật giữa các tiểu bang về vấn đề này. Có một số tiểu bangđã hợp thức hóa mang thai hộ trong hệ thống pháp luật, một số tiểu bang khác lạiquy định cấm, trong khi các tiểu bang khác tình trạng pháp lý của vấn đề này khôngrõ ràng.Khảo sát của Liên đoàn Sinh sản Thế giới về vấn đề mang thai hộ được thựchiện vào năm 2013 tại 105 quốc gia. Cho thấy có 19 quốc gia quy định về vấn đềmang thai hộ rõ ràng; 24 quốc gia theo đạo Hồi và Thiên chúa giáo nghiêm cấmmang thai hộ; 14 quốc gia không có quy định cụ thể nhưng cho phép thực hiện dựatrên các luật liên quan9.Hội thảo Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) được tổ chức tại Hà Lan vào năm2012 rút ra kết luận: Các thiết chế trên thế giới quy định về mang thai hộ đang đượcchia ra làm bốn nhóm. Cụ thể: Nhóm nước chưa có quy định, nhóm nước phản đối,nhóm nước cho phép vì mục đích nhân đạo và nhóm các nước chấp thuận thươngmại hóa10.Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, tác giả tạm chia pháp luật thế giới về mangthai hộ làm ba nhóm: Nhóm các quốc gia không quy định về mang thai hộ, nhómcác quốc gia cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức và nhóm các quốc gia cho phépmang thai hộ. Trong nhóm các quốc gia cho phép mang thai hộ, tác giả nêu tổngquan hai hình thức mang thai hộ chia theo hai nhóm quốc gia: nhóm các quốc giacho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và nhóm các quốc gia cho phép mangthai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại.9Vân Sơn, “Luật mang thai hộ dưới góc nhìn của chuyên gia y tế”,http://dantri.com.vn/suc-khoe/luat-mang-thai-ho-duoi-goc-nhin-cua-chuyen-gia-y-te1427163954.htm, truy cập ngày 28/5/2016.10Trung Nhân, “Mang thai hộ: Được, không?”, http://www.baomoi.com/mang-thai-hoduoc-khong/c/15082225.epi, truy cập ngày 28/5/2016.181.3.1 Nhóm các quốc gia không quy định về mang thai hộMặc dù mang thai hộ mang một ý nghĩa thực tế đối với mỗi gia đình nóiriêng và đối với xã hội nói chung. Tuy nhiên, hiện nay pháp luật một số quốc gia vàmột số vùng lãnh thổ trên thế giới không có bất kỳ quy định pháp lý nào điều chỉnhvấn đề này.Ví dụ, một số bang của Mỹ như Alaska, New Mexico, North Carolina,Mississippi không thiết lập các quy định điều chỉnh vấn đề mang thai hộ. Các bangnày không đề cập đến mang thai hộ, không thể hiện sự cho phép cũng không quyđịnh cấm xuất phát từ điều kiện chính trị, văn hóa – xã hội hay do phong tục, tậpquán của bang mình.1.3.2 Nhóm các quốc gia cấm mang thai hộBên cạnh một số quốc gia, vùng lãnh thổ không quy định về vấn đề mang thaihộ trong pháp luật thì một số quốc gia lại quy định về vấn đề này nhưng dưới dạngquy định cấm. ĐứcĐức là một trong những quốc gia đầu tiên cấm mang thai hộ trong cơ chế pháplý. Việc cấm mang thai hộ được xem là hệ quả trực tiếp của “thuyết ưu sinh”11(Nazi euganics) về chính sách “thanh trừng chủng tộc” - một chính sách sinh sảnchịu sự chỉ trích nặng nề và đánh dấu thời kỳ lịch sử đen tối của Đức Quốc xã.Những cuộc tranh luận về vấn đề mang thai hộ ở Đức không ngừng diễn ra. Sựtiến bộ của công nghệ sinh sản đã tác động to lớn đến đời sống xã hội trên toàn thếgiới về vấn đề mang thai hộ nhưng do ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo, đăc biệt làCông giáo cùng với các nhóm nữ quyền và Đảng xanh đã góp phần bảo vệ quyềnlợi của cả người mẹ và thai nhi nên các nhà lập pháp ở Đức vẫn bảo lưu ý chí cấmmang thai hộ. Cụ thể, pháp luật Đức quy định mang thai hộ là vi phạm Điều 1 của11Thuyết ưu sinh được khởi xướng bởi nhà nhân chủng học người Anh – Francis Goltonvào năm 1883. Nó trở thành học thuyết nổi tiếng những năm cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thếkỷ XX. Nội dung cơ bản là các chủng tộc loài người có thể được cải tiến bằng cách nhângiống chọn lọc có kiểm soát, tạo ra những đứa trẻ với đặc điểm mong muốn, tính trạnghoàn hảo về thể chất và trí tuệ. Chính quyền Đức Quốc xã dưới thời Adolf Hitler đã ápdụng học thuyết này trong chương trình được gọi là “thanh trừng chủng tộc” nhằm tạo ramột thế hệ người Đức ưu việt nhất phục vụ cho tham vọng chính trị của Hitler. Theo ướctính, trong giai đoạn từ năm 1934 tới năm 1937, hơn 400.000 người đã phải thực hiện triêtsản ép buộc.19Hiến pháp, trong đó nói rằng phẩm giá con người là bất khả xâm phạm12. Lấy mộtcon người, bao gồm cả việc sử dụng cơ thể của một bên thứ ba cho mục đích sinhsản làm đối tượng của hợp đồng là vi phạm điều cấm theo pháp luật Đức. Việc hiếnnoãn và đẻ thuê cũng bị cấm theo quy định của Luật Bảo vệ phôi thai năm 1991(The Embryo Protection Act since 1991) với nội dung “không một người hành nghềy khoa nào được thực hiện việc thụ tinh nhân tạo hoặc cấy phôi cho một người phụnữ sẵn sàng trao con cho người khác thông qua thỏa thuận trước khi sinh”.Đức cũng không công nhận tư cách công dân cho những đứa trẻ sinh ra bằngphương pháp mang thai hộ được thực hiện ở nước ngoài. Những đứa bé này khôngđược cấp hộ chiếu để nhập cảnh vào lãnh thổ Đức. Trong một vụ án diễn ra vào đầunăm 2008, Tòa án Berlin đã ra phán quyết trao quyền cho Đại sứ quán tại Ấn Độ từchối cấp hộ chiếu cho một đứa bé được sinh ra bởi người phụ nữ Ấn Độ với ngườiđàn ông Đức thông qua mang thai hộ, với lý do theo pháp luật của Đức, người chahợp pháp của đứa bé là chồng của người mẹ thay thế, quốc tịch của người đàn ôngĐức (người cha sinh học) này không liên quan đến việc xác định quốc tịch đứa bé.Bộ ngoại giao Đức cũng đã đưa ra tuyên bố hết sức rõ ràng trên trang webchính thức của mình rằng trẻ em sinh ra từ mẹ thay thế ở nước ngoài cho các cặp vợchồng Đức sẽ không có quốc tịch Đức từ lúc sinh13. Nhật BảnTừ những năm 1970, Nhật Bản đã phải đối mặt với tình trạng gia tăng dân sốở mức thấp báo động. Tuy nhiên, Hiệp hội Bác sĩ sản khoa của Nhật Bản đã thôngqua một Sắc lệnh cấm sinh thay thế vào năm 1983. Thay vì hợp pháp hóa mang thaihộ, Chính phủ Nhật đã áp dụng các biện pháp kinh tế để khuyến khích sinh sản tựnhiên như: tăng chế độ thai sản, tăng trợ cấp cho trẻ em và tạo điều kiện cho phụ nữtrở lại làm việc sau sinh…Năm 2005, tỷ lệ phụ nữ có gia đình và sinh con tại Nhật Bản thấp nhất trongnhững năm trước đó. Đến năm 2006, Chính phủ Nhật Bản yêu cầu Hội đồng Khoa12International surrogacy laws,http://www.familylaw.com.ua/index.php?option=com_content&view=article&id=69, truycập ngày 30/5/2016.13Hannah McDermott (2012), “Surogacy Policy in The United States and Germany:Comparing the Historical, Economic and Social Context of Two Opposing Policies”,Senior Capstone Project, p.47.20học tổ chức các buổi đàm luận với sự tham gia của các bác sĩ chuyên khoa sinh sản,các chuyên gia pháp lý và các nhà xã hội học để đưa ra bản dự thảo mới về chínhsách khuyến khích sinh con. Tuy nhiên, quy định cấm mang thai hộ đã một lần nữađược khẳng định bởi Hội đồng Khoa học Nhật Bản vào tháng 3 năm 2008. Theo đó,bất kỳ chủ thể nào - bác sĩ, các cặp vợ chồng, những người mang thai hộ, người môigiới mang thai hộ đều sẽ bị xử phạt nếu thực hiện hành vi mang thai hộ14. PhápMang thai hộ xuất hiện ở Pháp cách đây không lâu. Thời kỳ đầu, một số tổchức phục vụ cho hoạt động này được thành lập và hoạt động rất mạnh. Nhưng vềsau, nhận thấy quyền lợi của người phụ nữ và trẻ em bị xâm hại nên các cơ quan tưpháp của Pháp đã giải thể các tổ chức này.Việc mang thai hộ đã bị cấm tại Pháp từ năm 1991 bằng một tuyên bố của Tòaán tối cao Pháp: “Cơ thể con người không để cho mượn hay để bán đi”. Tuyên bốnày cấm tuyệt đối mang thai hộ dưới mọi hình thức (vì mục đích nhân đạo haythương mại hóa). Mọi trường hợp phát hiện vi phạm sẽ bị hầu tòa, thậm chí còn bịtruy cứu trách nhiệm hình sự.Lệnh cấm này đã được tái khẳng định trong pháp luật về Đạo đức sinh họcnăm 1994 và được hệ thống hóa trong Điều 16.7 Bộ luật Dân sự Pháp. Ngoài ra,Điều 16.9 Bộ luật Dân sự Pháp còn làm phát sinh thêm một Lệnh cấm công cộng15với nội dung một hợp đồng với nội dung mang thai hộ sẽ bị coi là vô hiệu, bất kể vìmục đích gì, các vi phạm sẽ áp dụng các chế tài dân sự theo quy định tại các Điều311.25, Điều 325 và Điều 332.1 Bộ luật Dân sự hoặc Điều 227.12, Điều 227.13 Bộluật Hình sự.Trên thực tế, việc thực thi lệnh cấm này hết sức khó khăn vì xu thế toàn cầuhóa. Nhiều quốc gia khác trên thế giới lại cho phép mang thai hộ dẫn đến tình trạngcông dân Pháp tìm đến những người phụ nữ đồng ý mang thai hộ tại các quốc nàyđể giao kết một hợp đồng “đẻ thuê”. Phán quyết của Tòa Giám Đốc thẩm vào tháng14Trần Thị Phương Thanh (2014), “Pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam và một số kiếnnghị hoàn thiện, Khóa luận tốt nghiệp”, Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.2415Lệnh cấm công cộng: là quy định bắt buộc tạo ra từ ý chí đơn phương của nhà nước đểbảo vệ các giá trị cơ bản của xã hội theo quy định của pháp luật Pháp.2112 năm 2008 đã bác bỏ Giấy khai sinh do bang California cấp cho hai đứa con củamột cặp vợ chồng mang quốc tịch Pháp sử dụng dịch vụ mang thai hộ ở bangCalifornia, Mỹ và không công nhận hai đứa bé này là con của vợ chồng này cũngnhư không thừa nhận mang quốc tịch Pháp. Tòa án Pháp ra phán quyết như thếnhằm đảm bảo việc thực thi đúng Lệnh cấm công cộng đã ban hành ở Pháp, khôngmột tài liệu nước ngoài cụ thể nào được thừa nhận nếu nó chống lại trật tự côngcộng quốc tế Pháp hoặc bất hợp pháp.Việc cấm mang thai hộ tại Pháp lại một lần nữa được khẳng định trong quátrình sửa đổi Luật Đạo đức sinh học năm 2009-2010. Theo luật này, việc đẻ thaycho người khác là không phù hợp với nguyên tắc đạo đức và nhân phẩm con ngườimặc dù trước đó Hội đồng Nhà nước đã đưa ra những đề xuất cho dự luật mới vềmang thai hộ ở Pháp như: cho phép thiết lập quan hệ cha, mẹ, con nuôi đối với đứacon sinh ra từ hình thức mang thai hộ với cặp vợ chồng vô sinh; cấm mang thai hộtrong nước nhưng thừa nhận tư cách công dân đối với công dân Pháp thực hiệnmang thai hộ ở nước ngoài hay táo bạo hơn là hợp pháp hóa mang thai hộ vì mụcđích nhân đạo…Như vậy, hệ thống pháp luật Pháp cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức.Công dân Pháp thực hiện mang thai hộ ở nước ngoài cũng không được thừa nhận tạiPháp.1.3.3 Nhóm các quốc gia cho phép mang thai hộPháp luật một số quốc gia trên thế giới đã hợp pháp hóa vấn đề mang thai hộ.Do mỗi quốc gia có sự khác nhau về đặc điểm chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo...nên mức độ cho phép mang thai hộ trong pháp luật của mỗi quốc gia cũng khônggiống nhau. Một số quốc gia chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, mộtsố quốc gia khác lại cho phép cả hai hình thức mang thai hộ: mang thai hộ vì mụcđích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại. Nhóm các quốc gia chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạoVƣơng quốc AnhMang thai hộ là hợp pháp ở nước Anh. Nhưng hợp đồng mang thai hộ vì mụcđích thương mại lại bị cấm bởi Đạo luật thỏa thuận mang thai hộ năm 1985(Surogacy Arrangements Act 1985) tại Vương quốc này.22Đạo luật thỏa thuận mang thai hộ của Anh cấm bên thứ ba (không phải là bênmang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ) có hành vi khởi xướng hoặc tham gia vàocác cuộc đàm phán, chào hàng hoặc đồng ý đàm phán, tạo điều kiện trong việc sắpxếp mang thai hộ. Việc mang thai hộ phải do hai bên (bên mang thai hộ và bên nhờmang thai hộ) tự nguyện tìm đến nhau, không chấp nhận hình thức môi giới. Hơnnữa, pháp luật Anh cũng không cho phép hành vi một người phụ nữ đăng tin quảngcáo cho việc sẵn sàng trở thành người mang thai hộ cũng như hành vi đăng tinquảng cáo tìm người mang thai hộ của cặp vợ chồng vô sinh. Trừ trường hợp đượcTòa án yêu cầu, người nhờ mang thai hộ không được phép chi trả bất kỳ khoản tiềnnào đối với người mang thai hộ vượt quá “các chi phí hợp lý” trong quá trình thaikỳ. Tuy nhiên, “các chi phí hợp lý” là những chi phí gì thì đạo luật này chưa quyđịnh.Sau đó, Đạo luật thỏa thuận mang thai hộ năm 1985 được sửa đổi bởi LuậtThụ tinh nhân tạo và Phôi 1990 và tiếp tục được sửa đổi vào năm 2008. Khi LuậtThụ tinh nhân tạo và Phôi 1990 có hiệu lực thì các cặp vợ chồng tại Anh đã có thểđược thừa nhận quyền cha mẹ hợp pháp đối với đứa trẻ mà không lo về tranh chấpquyền nuôi dưỡng đứa trẻ với người mẹ thay thế theo một văn bản được gọi là Lệnhcha mẹ. Các tiêu chí của Lệnh cha mẹ được quy định chi tiết tại Luật thụ tinh nhântạo và phôi năm 2008 và được cấp bởi Tòa án Anh16.Hơn nữa, theo quy định của Luật trẻ em năm 2002 (the Adoption and ChildrenAct of 2002) của Anh, việc sắp xếp mang thai hộ chỉ được thực hiện cho các cư dânVương quốc Anh mà không chấp nhận công dân Anh sinh con cho các cặp vợchồng có yếu tố nước ngoài nhằm mang đứa trẻ ra khỏi lãnh thổ Anh.AustraliaHiện nay, hầu hết các tiểu bang Australia cho phép mang thai hộ và ngườimang thai hộ được nhận những chi phí hợp lý. Tuy nhiên, những chi phí này khôngđồng nhất với những lợi ích vật chất. “Chi phí hợp lý” là những khoản chi phí phátsinh trong quá trình mang thai hộ như khoản tiền chi trả cho bệnh viện thực hiện kỹ16International surrogacy laws,http://www.familylaw.com.ua/index.php?option=com_content&view=article&id=69, truycập ngày 30/5/2016.23