Vì sao giá trái phiếu tăng thì lãi suất giảm

Trái phiếu và cổ phiếu là hai lựa chọn phổ biến trong lĩnh vực đầu tư. Tuy nhiên, hai kênh đầu tư này có nhiều điểm khác biệt về tính chất, rủi ro, thu nhập và nhất là xu hướng giá khi nền kinh tế thay đổi cũng khác nhau. Vì vậy các nhà đầu tư cần hiểu rõ đặc điểm, rủi ro cũng như khả năng sinh lời của từng loại để có quyết định phù hợp.

Sơ lược về trái phiếu và cổ phiếu

Trái phiếu là những khoản nợ mà nhà đầu tư cho chính phủ hoặc các doanh nghiệp vay. Lãi suất duy trì cố định trong suốt thời gian hiệu lực của khoản vay. Nhà đầu tư sẽ nhận lại vốn gốc khi đáo hạn nếu tổ chức phát hành trái phiếu không phá sản.

Giá trị trái phiếu thay đổi theo thời gian.

Đối với việc bán lại trái phiếu trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cần lưu ý: những người giao dịch trái phiếu sẽ so sánh suất sinh lời của trái phiếu mà nhà đầu tư muốn bán với các trái phiếu khác, trái phiếu nào lãi suất thấp hơn, hoặc có xếp hạng tín nhiệm thấp hơn sẽ được định giá thấp hơn những trái phiếu còn lại.

Cổ phiếu là phần góp vốn, thể hiện quyền sở hữu công ty. Giá trị cổ phiếu phụ thuộc vào thu nhập của công ty đó.

Thông thường các công ty sẽ công bố báo cáo thu nhập mỗi 3 tháng. Giá cổ phiếu thay đổi hàng ngày, phụ thuộc vào nhiều yếu tố ví dụ như dự đoán của các nhà đầu tư về lợi nhuận tương lai của công ty này so với công ty đối thủ.

Mối tương quan về giá giữa trái phiếu và cổ phiếu

Nhìn chung, giá của trái phiếu và cổ phiếu dịch chuyển theo hai hướng ngược nhau. Khi giá cổ phiếu tăng thì giá trái phiếu giảm và ngược lại. Nguyên nhân của hiện tượng này là do trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng tốt, cổ phiếu là lựa chọn hàng đầu để đầu tư. Sức tiêu thụ của thị trường tăng và do đó các công ty có thể tăng thêm được thu nhập. Như vậy, trong tình huống này các nhà đầu tư có cơ hội bán các trái phiếu đang nắm giữ để chuyển hướng sang mua cổ phiếu.

Ngược lại, trong điều kiện nền kinh tế trì trệ, sức mua giảm xuống làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp và sẽ dẫn đến việc cổ phiếu bị rớt giá.

Đây là giai đoạn mà các nhà đầu tư ưu tiên các khoản thu nhập đều đặn do lãi suất của trái phiếu mang lại.

Đôi lúc, giá của trái phiếu và cổ phiếu có thể tăng cùng một lượt, tình trạng này xảy ra khi lưu lượng tiền lưu thông quá nhiều hoặc tính thanh khoản cao nhưng các kênh đầu tư lại hạn chế, khi thị trường đang ở tại đỉnh…Ngoài ra, một lý do nữa dẫn đến hiện tượng này là cùng một lúc nhiều nhà đầu tư lạc quan đối với tương lai của thị trường nên ra quyết định mua cổ phiếu, một nhóm khác lại có nhận định bi quan nên đầu tư vào trái phiếu.

Bên cạnh đó, có những thời điểm giá cổ phiếu và trái phiếu cùng giảm, đó là khi các nhà đầu tư rơi vào tình huống hoảng loạn và có xu hướng bán tất cả các tài sản đang nắm giữ, trong khoảng thời gian này, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy giá vàng tăng lên rõ rệt.

Trái phiếu và cổ phiếu: lựa chọn nào tốt hơn?

Việc đầu tư vào trái phiếu tốt hơn hay cổ phiếu tốt hơn phụ thuộc vào 2 yếu tố.

Đầu tiên, nhà đầu tư cần xác định mục tiêu của mình, nếu tâm lý không muốn mất phần vốn gốc và mong muốn có được các khoản thu nhập đều đặn và không lo lắng về lạm phát thì trái phiếu là một lựa chọn tốt cho nhà đầu tư.

Nếu nhà đầu tư có khả năng giữ cổ phiếu ngay cả trong trường hợp cổ phiếu xuống giá, chưa cần thu nhập trong hiện tại và muốn vượt qua lạm phát thì cổ phiếu là lựa chọn thích hợp vì có khả năng mang lại nhiều lợi ích hơn.

Yếu tố thứ hai cần cân nhắc đó là tình trạng nền kinh tế. Nói cách khác, chúng ta cần xem xét nền kinh tế đang ở giai đoạn nào của chu kỳ kinh doanh. Nếu đang ở giai đoạn mở rộng thì cổ phiếu sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn bởi vì giá cổ phiếu có xu hướng tăng do thu nhập tăng. Nếu nền kinh tế đang ở trong thời kỳ đi xuống thì trái phiếu là lựa chọn phù hợp vì vừa đảm bảo được khoản đầu tư vừa tạo ra thu nhập ổn định.

Hầu hết các nhà hoạch định kế hoạch tài chính đều khuyên chúng ta nên đa dạng hóa danh mục đầu tư là chiến lược tốt nhất.

Điều này đồng nghĩa với việc nhà đầu tư luôn luôn cần nắm giữ vừa trái phiếu vừa cổ phiếu trong danh mục đầu tư theo tỷ lệ nào đó. Các kết quả từ việc nghiên cứu cũng cho thấy đa dạng hóa mang lại lợi nhuận cao nhất với mức rủi ro được hạn chế thấp nhất.

Nhà đầu tư có thể thay đổi tỷ trọng tài sản nắm giữ, là tỷ lệ phần trăm đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu trong danh mục đầu tư tùy vào từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế và mục tiêu tài chính của mình.

Th.S Huỳnh Thị Gia Lộc
[Tổng hợp]

Nhìn sơ qua thì có vẻ như mức giá chung và lạm phát kỳ vọng tăng ảnh hưởng như nhau đến

sự tăng lãi suất. Tuy nhiên nó vẫn có sự khác biệt

Giả sử hôm nay mức cung tiền tệ tăng ,thì cho đến năm sau mức giá chung mới tăng do bị ảnh hưởng vì mức giá chung sẽ tăng từ từ trong năm nay,lãi suất thị trường cũng sẽ tăng dần theo mức giá chung.Cho đến cuối năm,khi mà mức giá chung tăng đến cực đại khi đó ảnh hưởng của nó lên lãi suất là lớn nhất.

Khi mức giá chung tăng thì lạm phát kỳ vọng tăng và như vậy dẫn đến lãi suất thị trường tăng.Qua năm sau khi mà mức giá chung đã ngừng tăng thì lạm phát kỳ vọng không còn nữa,[return to zero].Mọi sự tăng lãi suất từ việc tăng lạm phát kỳ vọng trước đó sẽ không còn nữa.Vì vậy ta thấy rằng ảnh hưởng của việc tăng mức giá chung là lớn nhất trong năm tới ngược lại ảnh hưởng của tăng lãi suất kỳ vọng nhỏ nhất trong năm tới.Căn bản là ảnh hưởng của việc tăng mức giá chung vẫn duy trì sau khi giá cả thực sự đã dừng tăng,ngược lại ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng đã biến mất.

Đặc biệt là ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng chỉ tồn tại khi mức giá chung đang trong quá trình tăng.

Các nhân tố sau làm thay đổi đường cung trái phiếu

- Lợi nhuận kỳ vọng của vốn đầu tư

Lợi nhuận kỳ vọng đây là lợi nhuận được các công ty tính toán & ước lượng nếu đầu tư vào 1 dự án nào đó.

Ví dụ công ty A tính toán rằng lợi nhuận khi đầu tư vào dự án ABC rất cao,do vậy công ty cần vốn để đầu tư,đầu tư nhiều thì sinh lời nhiều,họ phát hành trái phiếu để kêu gọi vốn,như vậy là cho nguồn cung trái phiếu tăng.

Cung tăng thì giá trái phiếu giảm.

Tuy nhiên lúc này do nhu cầu vay vốn trong thị trường tăng lên ,như vậy lãi suất sẽ tăng để thu hút người dân cho vay.

- Chính sách thuế

Nếu thuế thấp thì lúc đó lợi nhuận kỳ vọng của công ty cao ->công ty sẵn sàng huy động vốn bằng cách bán trái phiếu -> giá trái phiếu giảm -> lãi suất tăng.

- Lạm phát kỳ vọng ảnh hưởng tới cung cầu trái phiếu

Khi lạm phát kỳ vọng tăng thì dễ dàng nhận thấy rằng cầu trái phiếu sẽ giảm.

Nhưng ngược lại cung trái phiếu sẽ tăng,lý do là chi phí của việc vay mượn thực tế sẽ giảm và như vậy người ta phát hành trái phiếu nhiều hơn.

Kết quả như hình bên dươí : số lượng cân bằng không đổi nhưng giá cân bằng giảm

- Vay nợ của chính phủ

Khi chính phủ thiếu tiền,chính phủ phát hành trái phiếu -> cung trái phiếu tăng -> giá trái phiếu giảm -> lãi suất tăng

[Picture from page 143 book The economic of money, banking, and financial markets [9th Ed] - Mishkin]

Mục lục:

Nội dung 0: Thị trường tài chính

Nội dung 1: Cổ phiếu

Nội dung 2: Trái phiếu

Nội dung 3: Tái cấu trúc hệ thống NHTM

Nội dung 4: Khủng hoảng tài chính

Nội dung 0: Thị trường tài chính

Thị trường tiền tệ và thị trường vốn là hai bộ phận cấu thành nên thị trường tài chính cùng thực hiện một chức năng là cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó các nghiệp vụ hoạt động ở trên hai thị trường có mối liên quan bổ sung và tác động hỗ tương.

Lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường vốn. Nếu lãi suất của các ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao, điều này sẽ khiến cho người tiết kiệm thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất và rủi ro thấp hơn so với việc đầu tư vào chứng khoán. Mặt khác, các biến đổi về giá cả và lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn như quan hệ cung cầu và giá của cổ phiếu và trái phiếu. Chẳng hạn như, một số chứng khoán dài hạn có lãi suất thả nổi, căn cứ để điều chỉnh lãi suất là lãi suất tiền gửi ngắn hạn của ngân hàng. Hay khi định giá của cổ phiếu hay trái phiếu tại một thời điểm bất kỳ nào đó trên thị trường, người ta phải tham khảo lãi suất của ngân hàng được hình thành trên thị trường tiền tệ.

Giữa lãi suất thị trường và giá của trái phiếu có mối quan hệ tỷ lệ nghịch: khi lãi suất của ngân hàng tăng cao hơn lãi suất trái phiếu, trái phiếu sẽ sụt giá và tình hình ngược lại khi lãi suất ngân hàng hạ xuống hơn lãi trái phiếu.
Ngược lại, các thay đổi về chỉ số giá cổ phiếu của thị trường vốn cũng phản ảnh các hiện tượng tốt hay xấu, đã đang hoặc sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Đối với thị trường vốn, việc duy trì một lãi suất ổn định không thăng trầm quá đáng là cần thiết cho sự ổn định của thị trường.

Trên thực tế, các hoạt động của thị trường tiền tệ và thị trường vốn được thực hiện đồng bộ xen lẫn nhau, tác động và chịu sự ảnh hưởng của nhau, tạo thành cơ cấu hoàn chỉnh của một thị trường tài chính.
Việc phân định thị trường tài chính thành 2 bộ phận là thị trường tiền tệ và thị trường vốn chỉ là biện pháp để tạo thuận lợi cho quá trình nghiên cứu từng loại thị trường. Trên thực tế, không phải dễ dàng có thể chỉ ra đâu là khu vực chuyên môn hoá của thị trường tiền tệ và đâu là khu vực chuyên môn hoá của thị trường vốn.

Hai thị trường này có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Các biến đổi về giá cả, lãi suất trên thị trường tiền tệ thường kéo theo các biến đổi trực tiếp trên thị trường vốn. Ngược lại, các biến đổi về chỉ số chứng khoán hoặc trị giá cổ phiểu của thị trường vốn cũng phản ảnh các hiện tượng tốt xấu đã đang và sẽ xảy ra trên thị trường tiền tệ. Các chính sách của Nhà nước như chính sách lãi suất, tiền tệ với mục đích phát triển thị trường tiền tệ đồng thời cũng là các yếu tố ngăn cản phạm vi hoạt động của thị trường vốn. Xét trong tương lai, xuất phát từ những đòi hỏi thực tế, không thể tồn tại một thị trường tiền tệ thuần tuý cũng như không thể tồn tài một thị trường vốn thuần tuý mà phải tồn tại một thị trường tài chính bao gồm cả thị trường vốn và thị trường tiền tệ hỗn hợp.

 

------------------------

Nội dung 1: Cổ phiếu

*]Ưu nhược điểm 2 hình thức huy động vốn

*] Nhân tố ảnh hưởng đến giá của 2 loại chứng khoán

- Thúc đẩy nền kinh tế phát triển

- Thu hút& kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài

- Kích thích DN sản xuất kinh doanh lành mạnh& hiệu quả hơn

- Phương tiện giúp chính phủ thực hiện chính sách kinh tế tài chính

- Công cụ đánh giá hoạt động kinh doanh, phong vũ biểu nền kinh tế

- Kênh huy động vốn nhanh chóng, hiệu quả, cung cấp nguồn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế

- Giúp chính phủ thực hiện chính sách TT, đáp ứng nhu cầu vốn CP

- Đa dạng hoá rủi ro, giảm tập trung vào hệ thống NH, giảm chi phí vốn cho nền KT.

*] Các phương pháp định giá cổ phiếu/ giá trị công ty


Lưu ý: MH trên giả định CP sẽ được bán vào cuối năm n

-EPS của năm trước/ hiện nay là Eo, lợi tức cp năm trước/hiện hành là DPSo

- Thu nhập mỗi cp[ EPS], lợi tức cp[ DPS]

[1] được dùng khi đòn bẩy tài chính cao

[2] thích hợp ngành TCNH[ ko phải cty dịch vụ], dùng khi EPS âm

[3] ít bị bóp méo hơn EPS, P/V, dùng khi EPS âm

vd]

Cty D trả cổ tức 1$, tốc độ tăng trưởng 30% và giảm dần trong 10 năm, sau đó giữ mức ổn định 8%/năm.Gsử tỷ suất sinh lời 12%/năm.Tính giá trị CP cty D

Giải:

PV= [1*[1+0.08]+ [1+ 10/2 [0.3-0.08]]/[0.12-0.08]= 54.5

vd]

Cty trải qua 3 giai đoạn, GĐ tăng nhanh trong 4 năm, tốc độ 35%/năm, tỷ suất sinh lời yêu cầu của cổ đông là 22%/năm.GĐ chuyển tiếp trong 3 năm với tốc độ tăng trưởng giảm 10%/năm, tỷ suất sinh lợi yêu cầu của CĐ là 17%/năm. GĐ tăng ổn định với tốc độ tăng 5%/năm, tỷ suất sinh lợi yêu cầu với CĐ 12%/năm. FCFE/cp gần đây[FCFEo] 0.95$, định giá CP cty D.

Giải:

*] Ngoài lề:

-Cthức R= D1/Po+[P1-Po]/Po thực chất suy ra từ c thức Po= [D1+ P1]/[1+r] trong đó P1= [D2+P2]/[1+r]

Có thể thu thập mẫu chứng khoán cùng rủi ro rồi tính R trung bình

-Nếu giả định Dt, Pt--> g thì Po sẽ bằng nhau dù lấy n khác nhau

-Tính g bằng 2 cách: % giữ lại* ROE hoặc [P1-Po]/Po

*] So sánh các mô hình định giá cổ phiếu


Lãi suất chiết khấu: ls thị trường

Giả định không bán[ ko có vốn gốc]

[1] F là mệnh giá chuộc lại

Có thể dùng 2 pp: nội suy hoặc gần đúng[đáp số nhỏ hơn nội suy]

PP gần đúng: YTM= [F*i+[F-P]/n]/[[F+P]/2] hoặc= [F*i+[F-P]/n]/[[F+2P]/3]

Trong đó: i là ls trái phiếu

[3] dự báo khi lãi suất thị trường tăng thì giá giảm bn

Tính M trái phiếu MG=1000$, ls 10%/ năm, kì hạn 4 năm, trả lãi 1 năm/1 lần, ls thị trường 8%/ năm

Ý nghĩa: chỉ cần 3.5 năm, TP đáo hạn

Tính M trái phiếu MG= 100$, ls 10%/năm, kì hạn 5 năm, trả lãi 6 tháng, giá bán theo MG

Giải: M= 8107822/[2*100]= 4.05

mối quan hệ n& i[ zero coupon]

kì hạn 1 năm, gọi Z2 là ls giao ngay 1 năm

kì hạn 6 tháng+ 6 tháng, z1 là ls giao ngay 6 tháng đầu, f: 6 tháng sau

[a]= [b]--> f=> dự đoán lãi suất ngắn hạn trong tương lai

MG= 1000$, ls 9%/năm, tg đáo hạn 10 năm, giá bán 1000$

NY=9%, CY= 10.2%, YTM= 11%

NY nghịch biến[ hyperbol]

n- i--> đồng biến [đường cong lãi suất]

Nội dung 3: Tái cấu trúc hệ thống NHTM

*] Mua lại 0 đồng--> NH TNHH một thành viên-->M&A/ bán lại

 NHTMCP xây dựng                 Đại Dương

                 Dầu khí toàn cầu

VNCBOceanBank 

GP Bank

Lý do: Nợ vượt nhiều lần vốn tự có, nhà nước không cho phá sản

0đ: Mua toàn bộ cổ phiếu của các CĐ hiện hữu theo giá thị trường[ định giá độc lập]

Mục đích và hạn chế từ việc mua lại 0đ

Định nghĩa

Khi ngân hàng có Tài sản Có nhỏ hơn tài sản Nợ thì NHNN có thể mua lại ngân hàng yếu kém này với giá 0 đồng hoặc chỉ định ngân hàng khác mua lại.

“Khi mua lại, tiếp quản ngân hàng yếu kém, NHNN sẽ kế thừa quyền lợi đối với Tài sản Có, có quyền đòi nợ vay cũng như kế thừa nghĩa vụ đối với Tài sản Nợ hay phải chi trả cho người gửi tiền”

Tất cả các ngân hàng trong diện bị mua lại với giá 0 đồng đều được NHNN cho thời gian tự khắc phục trong hai năm, nhưng họ đều không tự gượng dậy được.

Khi Chính phủ chưa cho phép ngân hàng phá sản thì cơ quan này mới thực hiện giải pháp cuối cùng là đứng ra mua lại với giá 0 đồng để bảo vệ người gửi tiền và giữ ổn định hệ thống chứ không đặt mục tiêu kinh doanh.

Lưu ý:

Đối với việc mua lại VNCB, Oceanbank, GPBank, NHNN đều thuê kiểm toán quốc tế định giá. Kết quả định giá cho thấy, tài sản các ngân hàng đó âm hết vốn, tức giá trị cổ phiếu không còn gì. Trong trường hợp các ngân hàng đã mất hết vốn chủ sở hữu thì việc NHNN mua lại với giá 0 đồng là hợp lý. Đây là quan hệ mua bán, không phải là quốc hữu hóa”

Mục đích

Một khi có ngân hàng trung ương tham gia vào một ngân hàng thương mại thì chắc chắn niềm tin của thị trường sẽ tăng lên và nhà băng đó sẽ phục hồi tốt. 

Nhà nước không chọn cách phá sản ngân hàng  mà mua lại với giá 0 đồng nhằm đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, ổn định chính trị, xã hội

NHNN mua lại các ngân hàng này nhằm củng cố xem có thể khắc phục được phần nào và chờ bán lại cho doanh nghiệp khác.

Hạn chế

Ngân hàng Nhà nước ắt phải kế thừa trách nhiệm với người gửi tiền, khắc phục các tồn tại, lấp đầy các khoản lỗ cũng như bổ sung đầy đủ số vốn điều lệ theo quy định và cần một khoản chi phí rất lớn cho việc tái cấu trúc nhà băng.

Ngân hàng Nhà nước đồng nghĩa ôm một khoản nợ xấu lớn, rất khó xử lý và nguy cơ mất vốn là cực cao.

Công tác tái cấu trúc chắc chắn sẽ mất một thời gian khá dài

*] M&A 2011-2015

 Sáp nhậpHabubank--> SHBĐại Á Bank--> HD BankPG Bank--> ViettinBankMHB--> BIDVMDB--> Maritime

Phương Nam--> Sacombank[ thù nghịch] 

 Hợp nhấtSCB- Ficombank- Tín Nghĩa Bank
WesternBank- PVFC--> PVcombank 
Nhận xét: Hầu hết các thương vụ sáp nhập đều bằng phương pháp hoán đổi cp[ tỷ lệ 1:1, 1:0.75] và là tự nguyện

---------------------------------------------- 

Nội dung 4: Khủng hoảng tài chính

KH kép loại 1[ Thái Lan 7/1997,...]

KH kép loại 2[ Hy Lap,...]

-Có phải tính tư lợi luôn đúng?

-Thị trường tự do và vai trò của chính phủ

-Tổ chức xếp hạng tín nhiệm và rủi ro đạo đức

-Cơ chế khen thưởng có thể làm tăng rủi ro

-Những mô hình chỉ có giá trị giới hạn.




Video liên quan

Chủ Đề