Vì sao nói cá voi không phải là cá

Mục lục

Tiến hóaSửa đổi

Bài chi tiết: Tiến hóa của bộ Cá voi

Các loài cá voi đã tiến hóa từ các động vật có vú sống trên đất liền [có thể nhất là từ tổ tiên chung là các dạng động vật ăn thịt có móng guốc, cùng nhánh chị em đồng tiến hóa kia là các động vật guốc chẵn [Artiodactyla] như lợn và hà mã].[1] Chúng có lẽ đã thích nghi với cuộc sống đại dương vào khoảng 50 triệu năm trước.

Artiodactyla, nếu như loại bỏ nhóm Cetacea, là một nhóm đa ngành. Vì lý do này, thuật ngữ khoa học Cetartiodactyla [cá voi+guốc chẵn] đã được tạo ra để chỉ nhóm chứa cả động vật guốc chẵn và cá voi [mặc dù vấn đề có thể dễ dàng giải quyết bằng cách coi Cetacea là một phân nhóm của Artiodactyla].

Pakicetus Ambulocetus Kutchicetus Protocetus Janjucetus [Mysticeti] Squalodon [Odontoceti]
Cetartiodactyla

Tylopoda

Artiofabula

Suina

Cetruminantia

Ruminantia

Whippomorpha

Hippopotamidae

Cetacea

Thích nghi với cuộc sống dưới nướcSửa đổi

Trong khoảng thời gian vài triệu năm thuộc thế Eocen, các động vật dạng cá voi đã quay lại sống dưới biển, nơi đã từng là hốc sinh thái cho các dạng động vật săn mồi to lớn, kiếm ăn ở bề mặt nước nhưng đã bị bỏ hoang kể từ khi các loài bò sát của các nhóm Mosasaur [họ Mosasauridae] và Plesiosaur [phân bộ Plesiosauroidea] bị tuyệt chủng. Do sự tăng lên của không gian sinh sống nên đã không có giới hạn tự nhiên đối với kích thước của động vật dạng cá voi [cũng nghĩa là trọng lượng cơ thể mà các chân của chúng có thể duy trì được] do nước có sức nổi. Cũng chính vì thế mà chúng không còn cần tới các chân nữa.

Cũng trong khoảng thời gian này, động vật dạng cá voi đã mất dần đi các thuộc tính phù hợp cho sự sinh tồn trên đất liền và thu được các cơ chế thích nghi với cuộc sống dưới nước. Các chi sau biến mất và cơ thể của chúng trở thành thon và thuôn hơn – hình dạng cho phép chúng có thể di chuyển nhanh trong nước. Đuôi nguyên thủy của chúng cũng chuyển dạng thành một cặp thùy đuôi có tác dụng dẫn lái khi chuyển động theo chiều dọc.

Như là một phần của quá trình thuôn hóa này, các xương trong các chi trước của cá voi đã hợp nhất lại với nhau. Theo dòng thời gian, cái trước đây là các chân trước đã trở thành một khối đặc gồm xương, mỡ và mô, tạo ra các chân chèo rất hiệu quả và làm cân bằng kích thước to lớn của chúng.

Để duy trì nhiệt cơ thể trong các vùng biển lạnh, các loài cá voi cũng đã phát triển lớp mỡ cá voi, lớp chất béo dày nằm giữa lớp da bên ngoài và lớp thịt bên trong, có vai trò như nguồn cung cấp năng lượng trong trường hợp cấp thiết. Ở một vài loài cá voi thì lớp mỡ này dày tới hơn 30cm [1ft]. Không còn nhu cầu giữ ấm cơ thể từ bên ngoài nữa nên lớp lông của động vật dạng cá voi dần dần biến mất, tiếp tục làm giảm lực ma sát của khối cơ thể đồ sộ đối với nước.

Xương nhỏ ở tai trong gọi là xương búa bị hợp nhất với các thành của hốc xương nơi chứa các xương tai trong, làm cho việc nghe trong không khí gần như là không thể. Thay vì thế, sóng âm được truyền tải qua các xương hàm và xương hộp sọ.

Vì Sao Cá Voi Được Xếp Vào Lớp Thú?

Lớp thú là lớp động vật có xương sống, được xem là tổ chức sinh vật cao nhất trong môi trường hệ sinh thái của trái đất. Với đặc điểm có thai sinh và nuôi con bằng sữa mẹ, lớp thú phân biệt khoảng cách với các lớp động vật còn lại.

Vậy vì sao cá voi thuộc họ “Cá” nhưng vẫn được xếp vào lớp thú?

Đó là bởi vì cá voi thể hiện đầy đủ các đặc điểm mà lớp thú có: thở bằng phổi, tim 4 ngăn hoàn chỉnh, động vật máu nóng, có lông mao. Đặc biệt, cá voi sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ.

Khi cá voi bơi trong nước, chúng lấy oxi bằng cách bơi lên gần mặt nước để nhả khí cacbonic và hít khí oxi ở trong không khí. Điều này khiến cá voi phân biệt hoàn toàn với các loài cá khác [thở bằng mang và hô hấp ở trong nước]. Có thể nói rằng, cá voi là một “loài đặc biệt” trong lớp thú ngày nay.

Video liên quan

Chủ Đề