Bond yields thị trường chứng khoán là gì

Nếu gửi tiền tiết kiệm (savings) thì phần lợi nhuận thu được gọi là lãi (interest) theo một lãi suất (interest rate) nhất định thỏa thuận giữa người gửi và ngân hàng. Nếu bỏ tiền mua cổ phiếu (stock) trên thị trường chứng khoán, phần lợi nhuận được chia định kỳ gọi là cổ tức (dividend). Khác với interest, dividend không có một mức cố định mà biến động theo kết quả kinh doanh của công ty phát hành cổ phiếu đó.

Với trái phiếu (bond) thì khác. Ngoài yếu tố tiền lãi (coupon rate), người đầu tư vào bond còn được hưởng một khoản nữa, gọi là yield, tạm dịch tiếng Việt là “lợi suất”.

“Lợi suất” là gì và tại sao các thương nhân, các chính trị gia và các nhà báo thường chú ý rất nhiều đến sự tăng giảm của lợi suất, coi đó như là thước đo tâm lý buồn vui của thị trường tài chính và uy tín của một quốc gia, một doanh nghiệp?

Báo The Economist giải thích về trái phiếu: “A bond is a financial security which allows a government or firm to borrow money from markets”. Bond có nhiều loại, do các chính phủ (trái phiếu chính phủ), các thành phố (trái phiếu đô thị) hoặc doanh nghiệp (trái phiếu công ty) phát hành. Nhưng “the most common sort entitles the owner to occasional interest payments and the return of the principal on a specified maturity date (ngày đáo hạn)”.

Cũng như sản phẩm tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, bond có mức lãi suất (coupon rate) cố định, được ấn định thông qua kết quả đấu thầu (auction) trái phiếu. Tuy nhiên, một khi đã phát hành và lưu thông trên thị trường, bond trở thành một sản phẩm tài chính được các nhà đầu tư mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán.

Khi ấy, lãi suất và kỳ hạn của bond không thay đổi (interest payment and maturity dates remain constant) nhưng giá (price) của bond lại thay đổi theo cung-cầu của thị trường. Sự thay đổi giá của bond là yếu tố tạo nên lợi suất (yield).

Ví dụ, một nhà đầu tư bỏ ra 1.000 đô la Mỹ mua lô trái phiếu chính phủ (government bond) thời hạn 10 năm, lãi suất 3%/năm vào thời điểm tháng 1-2011 và đến tháng 1-2016 người đó muốn bán lại số trái phiếu này. Khi đó, lãi suất và ngày đáo hạn không thay đổi nhưng giá bán lô trái phiếu có thể sẽ cao hơn hay thấp hơn con số 1.000 đô la mà người đó đã bỏ ra; do đó lợi suất (yield) có thể khác với lãi suất ghi trên trái phiếu (coupon rate).

The one normally shown in the financial pages is the “yield to maturity”: the rate of return an investor could expect to receive given the price paid and the remaining interest and principal payments due on the bond.

Trong ví dụ trên, nếu người mua bỏ ra 950 đô la để mua lô trái phiếu ấy và cầm giữ cho tới ngày đáo hạn sau 5 năm nữa thì ông ta có thể nhận được 1.000 đô la (vốn, principal) cộng với 150 đô la tiền lãi (coupon) (1.000 x 3% x 5); tính ra, nhà đầu tư này kiếm được 200 đô la (không tính lạm phát). Tỷ lệ lợi suất (yield rate) ở đây là 200/1.000/5 = 4%/năm.

Nếu người đó mua lô trái phiếu không phải với giá (price) 950 đô la mà chỉ 900 đô la thôi, thì lợi suất sẽ là 5%/năm. Tính ra, lãi suất trái phiếu không thay đổi nhưng giá trái phiếu càng cao thì lợi suất càng giảm và ngược lại. When bond prices rise, investors can expect to receive less back in interest and principal as a share of the price paid, and so the yield falls. Falling bond prices, on the other hand, mean higher yields.

Sự tăng giảm lợi suất trái phiếu chứa đựng thông tin về độ tin cậy (creditworthiness) của nhà phát hành (issuer): lợi suất thấp thì độ tin cậy cao hơn và ngược lại; khi nhà phát hành có nguy cơ phá sản thì lợi suất trái phiếu tăng vọt và giá trái phiếu lao dốc. Năm 2010, thị trường lo ngại chính phủ Hy Lạp không trả được nợ, các nhà đầu tư đang nắm giữ trái phiếu chính phủ Hy Lạp đã vội vã bán tháo với giá thấp để thu hồi vốn, và lợi suất tăng cao gấp nhiều lần so với lợi suất trái phiếu các chính phủ châu Âu khác.

Trái phiếu nhìn chung ít rủi ro hơn cổ phiếu và sự thay đổi lợi suất lại báo hiệu những xu hướng đáng chú ý khác: nếu lợi suất giảm đồng loạt cả ở những trái phiếu an toàn nhất thì có khả năng thị trường đang lo lắng và bi quan, nền kinh tế sắp đi vào giai đoạn trì trệ thậm chí suy thoái; nhà đầu tư không muốn bỏ tiền vào các lĩnh vực rủi ro như chứng khoán (stock), hàng hóa chiến lược (commodities) mà muốn tìm nơi trú ẩn an toàn cho đồng vốn, trong đó trái phiếu chính phủ được coi là kênh đầu tư an toàn. Khi có nhiều nhà đầu tư đổ tiền vào thị trường trái phiếu thì giá trái phiếu tăng lên, lợi suất giảm xuống tương ứng.

Theo dõi diễn biến của lợi suất vì vậy là việc làm thường xuyên không chỉ của giới đầu tư mà của những người quan tâm tới kinh tế.

Lợi suất trái phiếu chính phủ (tiếng Anh: Government Bond Yield) là lãi suất được trả cho việc sở hữu trái phiếu chính phủ.

Bond yields thị trường chứng khoán là gì

Hình minh họa. Nguồn: Qz.com

Lợi suất trái phiếu chính phủ

Khái niệm

Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tiếng Anh là Government Bond Yield hay Sovereign Bond Yield.

Lợi suất trái phiếu chính phủ là lãi suất được trả cho việc sở hữu trái phiếu chính phủ (phát hành bằng nội tệ và ngoại tệ).

Nói cách khác, lợi tức trái phiếu chính phủ là tỉ lệ lãi suất mà chính phủ một quốc gia có thể vay. Trái phiếu chính phủ được chính phủ bán cho các nhà đầu tư để quyên tiền cho chi tiêu chính phủ, như tài trợ tài chính cho chiến tranh.

Đặc điểm Lợi suất trái phiếu chính phủ

Trái phiếu chính phủ, giống như các trái phiếu khác sẽ cung cấp một khoản lợi tức cho trái chủ và hoàn lại toàn bộ mệnh giá khi trái phiếu đáo hạn. Khoản lợi tức này được tính bằng lợi suất trái phiếu chính phủ.

Trái phiếu chính phủ là cách thức lấp đầy khoảng trống ngân sách được ưu tiên sử dụng bởi các chính phủ.

Nhiều loại trái phiếu chính phủ được coi là không có rủi ro như chứng khoán Kho bạc Mỹ, khi định giá các trái phiếu này nhà đầu tư không xem xét rủi ro tín dụng và các trái phiếu này cũng có lãi suất thấp hơn trái phiếu có rủi ro cao hơn.

Mức chênh lệch giữa lợi suất trái phiếu chính phủ và lợi suất trái phiếu doanh nghiệp được đánh giá cao của một quốc gia thường là thước đo phần bù rủi ro cho các trái phiếu doanh nghiệp.

Xem xét tất cả các yếu tố này khi xem xét đầu tư vào trái phiếu chính phủ hoặc trái phiếu của một doanh nghiệp trong quốc gia này là rất quan trọng.

Về mặt lí thuyết, trái phiếu chính phủ bằng tiền nội địa được coi là không có rủi ro vì chúng được phát hành bởi đồng tiền của chính phủ phát hành và chính phủ đó luôn có thể in thêm tiền để thanh toán trái phiếu khi đáo hạn. Tuy nhiên, nếu điều này xảy ra trái phiếu sẽ mất giá trị và lợi suất trái phiếu chính phủ sẽ giảm đáng kể.

Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi suất trái phiếu chính phủ bao gồm uy tín tín dụng của chính phủ phát hành, giá trị của đồng tiền phát hành trên thị trường hối đoái và sự ổn định của chính phủ phát hành.

Năm 2008, lãi suất trái phiếu Mỹ giảm do Mỹ là nước gây ra khủng hoảng tài chính.

Nhà đầu tư cần nhớ rằng không có công cụ nào là phi rủi ro trong lĩnh vực đầu tư ngay cả trái phiếu chính phủ.

Một số lưu ý

Lợi suất trái phiếu chính phủ thường dựa trên sự ổn định tài chính của chính phủ phát hành và khả năng trả nợ của họ.

Có nhiều tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế thường đánh giá mức độ tín nhiệm của trái phiếu chính phủ và lợi suất trái phiếu chính phủ như Moody's, Standard & Poor's và Fitch.

Các bảng xếp hạng này dựa trên các yếu tố sau:

- Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

- Lịch sử vỡ nợ của chính phủ

- Thu nhập bình quân đầu người trong cả nước

- Tỉ lệ lạm phát

- Các khoản nợ bên ngoài của chính phủ

- Mức độ phát triển kinh tế

Khi một chính phủ đang gặp bất ổn chính trị hay bị các yếu tố bên ngoài gây ra bất ổn, rủi ro chính phủ đó vỡ nợ và không thể thanh toán các khoản nợ của mình là rất cao.

Nhiều cuộc khủng hoảng nợ công đã xảy ra trong quá khứ, khi đó thị trường sẽ bắt đầu định giá giá trái phiếu bằng phần bù tín dụng dẫn đến chi phí vay mới cho các chính phủ phát hành nợ tăng lên.

Ngay cả khi không có rủi ro tín dụng, lợi suất trái phiếu chính phủ vẫn bị ảnh hưởng bởi rủi ro tỷ giá hối đoái và lãi suất trong nước.

Điều này sẽ càng đúng nếu các chính phủ đi vay bằng ngoại tệ (trái phiếu quốc tế chính phủ), ví dụ như một quốc gia ở Nam Mỹ vay bằng đồng đô la khi đồng đồng nội tệ mất giá có thể khiến việc trả nợ khó khăn hơn.

Phát hành trái phiếu quốc tế chính phủ thường là lựa chọn được thực hiện bởi các quốc gia có tiền tệ không mạnh.

Tại sao lãi suất thị trường tăng thì giá trái phiếu giảm?

Khi lãi suất tăng, trái phiếu mới có lãi suất cao hơn và mang lại nhiều thu nhập hơn. Khi lãi suất giảm, trái phiếu mới có lãi suất thấp hơn và không hấp dẫn như trái phiếu cũ. Do đó, cách duy nhất để tăng khả năng cạnh tranh và thu hút các nhà đầu tư mới là giảm giá trái phiếu.

Bond yield nghĩa là gì?

Lợi suất trái phiếu hay còn được gọi là Bond yield. Nó thể hiện tỷ lệ lợi nhuận của nhà đầu tư nhận được trên mệnh giá trái phiếu. Đặc biệt, lợi suất trái phiếu còn là thước đo khả năng sinh lời và được thể hiện bằng phần trăm mệnh giá của trái phiếu.

Lợi suất và lãi suất khác nhau như thế nào?

Lãi suất coupon là lợi tức đầu tư mà nhà đầu tư có thể mong đợi dựa trên lãi suất trái phiếu, là khoản thanh toán lãi hàng năm được biểu thị bằng phần trăm mệnh giá của trái phiếu. Lợi suất hiện hành được tính bằng cách chia khoản thanh toán lãi hàng năm của trái phiếu cho giá thị trường hiện tại của nó.

Giá yield là gì?

- Lợi suất (yield) là thu nhập của khoản đầu tư trong một khoảng thời gian nhất định và thường được tính bằng đơn vị phần trăm (%) so với giá trị đầu tư ban đầu hoặc mệnh giá. - Lợi suất bao gồm việc tăn giá tài sản lẫn những khoàn thu nhập từ tài sản như cổ tức.