Ở sinh vật nhân thực codon bộ ba mã hóa nào sau đây quy định tín hiệu mở đầu quá trình dịch mã
Bộ ba mã di truyền là tập hợp 3 nucleotide liền nhau trên phân tử axit nucleic mang thông tin về amino acid và tiến trình dịch mã.[1][2] Đây là thuật ngữ thuộc lĩnh vực di truyền học phân tử, trong tiếng Anh thuật ngữ này là triplet genetic code, thường được gọi tắt là "triplet code" (mã bộ ba),[3][4] hoặc đơn giản hơn nữa là "code" (mã) hay "codon" (đơn vị mã) hay "triplet" (bộ ba).[5][6][7] Tập hợp các bộ ba tạo thành mã di truyền (genetic code).[8] Nội hàm của thuật ngữ này dùng để chỉ "mã di truyền" (genetic code) gồm ba vật thể cùng loại (triplet) là ba nuclêôtit; ngoại diện của thuật ngữ chỉ "3 vật thể cùng loại" ở đây là 3 nuclêôtit có chứa thông tin di truyền.[3] Ví dụHai người nọ muốn viết thư bí mật, quy ước với nhau: chữ A là số 001, chữ B là số 002, chữ C là số 003 v.v. Người ta nói: chữ A được mã hóa bởi số 001, chữ B là số 002 v.v. Vậy:
Các loại bộ baTrong quá trình nghiên cứu Sinh học phân tử ở bậc phổ thông, nên phân biệt (dù không bắt buộc) các khái niệm: mã gốc, mã có nghĩa, mã phiên và đối mã.
DNA → RNA → Protein → Tính trạng. Sơ đồ này được xem là một trong những nền tảng của luận thuyết trung tâm (central dogma) nói trên.[12] Từ sơ đồ, có thể mô tả là: Mã gốc → Mã phiên → Bản dịch.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Bộ_ba_mã_di_truyền&oldid=67168460” |