Phân tích được vai trò của nô lệ đối với chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương đông cổ đại

Phân tích được vai trò của nô lệ đối với chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương đông cổ đại
Lập bảng thống kê về thời Lê Sơ theo gợi ý (Lịch sử - Lớp 7)

Phân tích được vai trò của nô lệ đối với chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương đông cổ đại

2 trả lời

Nhà nước chủ nô xuất hiện đầu tiên trên thế giới là Nhà nước Ai Cập cổ đại xuất hiện vào khoảng bốn nghìn năm trước Công nguyên, Nhà nước Xume (Sumer) cổ đại (vùng vịnh Pecxich) xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Nhà nước Trung Quốc và Ấn Độ cổ đại cũng xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước Công nguyên. Cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ dựa trên chế độ sở hữu tư nhân của chủ nô về tư liệu sản xuất và nô lệ. Xã hội chiếm hữu nô lệ có hai giai cấp cơ bản và có sự mâu thuẫn đối kháng là chủ nô và nô lệ. Nô lệ được coi là công cụ biết nói và là một thứ hàng hoá mà chủ nô có thể mua bán trên thị trường. Xét về bản chất thì nhà nước chủ nô là bộ máy chuyên chính của giai cấp chủ nô, là công cụ thiết lập và bảo vệ quyền lực của giai cấp chủ nô, đồng thời, là bộ máy trấn áp giai cấp nô lệ và những người lao động tự do trong xã hội. Bộ máy của nhà nước chủ nô chủ yếu là bộ máy quân sự và cảnh sát. Phần lớn, các nhà nước chủ nô chưa có sự phân chia quyền lực trong bộ máy nhà nước.

Ở các nước phương Đông, hình thức chính thể của nhà nước chủ nô phổ biến là hình thức quân chủ chuyên chế với quyền lực vô hạn của vua hay quốc vương, hoàng đế. Ở Hy Lạp cổ đại và La Mã cổ đại, hình thức nhà nước phong phú hơn. Ngoài hình thức quân chủ chuyên chế, ở La Mã còn tồn tại hình thức cộng hòa quý tộc, ở Aten (Hy Lạp) còn có hình thức cộng hòa dân chủ mà ở đây đại hội nhân dân được coi là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

Sự ra đời, quá trình phát triển của các kiểu nhà nước chủ nô theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênỉn

Ở phương Tây, quá trình biến đổi của xã hội dẫn đến sự ra đời của nhà nước chủ nô diễn ra tương đối nhanh chóng, sở hữu tư nhân phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn giai cấp rất gay gắt. Cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô là quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ, đất đai và các tư liệu sản xuất khác hầu hết thuộc sở hữu tư nhân của các chủ nô, kể cả nô lệ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ tồn tại hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ, bên cạnh đó là lực lượng dân tự do (giới bình dân). Nô lệ có địa vị vô cùng thấp kém, họ bị coi là tài sản thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô có quyền tuyệt đối đối với nô lệ, khai thác bóc lột sức lao động, đánh đập, đem bán, tặng cho, bỏ đói hay giết chết. Cơ sở kinh tế xã hội của nhà nước chủ nô là nhân tố quyết định bản chất, chức năng, bộ máy, hình thức nhà nước cũng như quá trình tồn tại, phát triển của nhà nước chủ nô.

Hiện nay, quan điểm về sự phân chia kiểu đối với các nhà nước phương Đông chưa có sự thống nhất. Ngay cả thời điểm khỏi đầu và thời điểm kết thúc của kiểu nhà nước đầu tiên ở khu vực này hiện cũng còn tranh luận. Các nhà nước phương Đông xuất hiện tương đối sớm so với các nhà nước phương Tây, trong điều kiện lực lượng sản xuất còn tương đối thấp kém, quá trình biến đổi của xã hội dẫn tới việc hình thành nhà nước khá chậm chạp và kéo dài. Nhà nước xuất hiện nhưng công xã nông thôn (công xã láng giềng), tàn tích của chế độ thị tộc vẫn còn tồn tại. Trong một thời gian dài, nhà nước tồn tại và phát triển trên cơ sở đan xen giữa chế độ công hữu còn điều kiện để phát triển khá vững chắc với chế độ tư hữu mới hình thành, chưa phát triển lắm. Quan hệ sản xuất chủ yếu trong xã hội là quan hệ giữa nhà nước với thành viên công xã nông thôn. Nhà nước là chủ sở hữu tối cao về ruộng đất nhưng kẻ trực tiếp chiếm hữu ruộng đất là các công xã nông thôn, công xã thay mặt cho nhà nước quản lí ruộng đất và chia cho thành viên trong công xã canh tác để nộp thuế cho nhà nước. Ở những nước này, số lượng nô lệ không nhiều, vai trò của nô lệ trong nền kinh tế nhìn chung khá hạn chế, nô lệ chủ yếu để hầu hạ phục dịch trong các gia đình quý tộc, quan lại hoặc thực hiện những công việc chung của công xã và nhà nước. Địa vị của nô lệ không đến nỗi thấp kém như ở các nước phương Tây, nô lệ có thể có gia đình riêng, có khi còn được coi như thành viên trong gia đình. Bộ phận đông đảo nhất trong xã hội là thành viên công xã nông thôn, họ là những người tự do, được công xã định kì chia đều ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước để tự canh tác và nộp thuế cho nhà nước. Như vậy, mặc dù có thể xếp vào cùng một kiểu, nhưng các nhà nước ở phương Đông và phương Tây có khá nhiều điểm khác biệt. Có thể nói, chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương Đông nhìn chung chưa phát triển và mang nhiều đặc trưng của chế độ nô lệ gia trưởng.

Mặc dù có rất nhiều hạn chế, tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, không thể phủ nhận được ý nghĩa lịch sử của nhà nước chủ nô. Dù sao, sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước chủ nô cũng là bước tiến của lịch sử nhân loại, nó tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá... của các xã hội sau này. Đúng như Ph. Ăngghen đã chỉ rõ:

“Không có chế độ nô ỉệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có che độ nô lệ thì không có Đe chế La Mã. Mà không có cái cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và Đe chế La Mã thì không có châu Âu hiện đại. Chúng ta không bao giờ được quên rằng tiền đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế, chỉnh trị và trí tuệ của chủng ta là một trạng thái trong đó chế độ nỏ lệ cũng hoàn toàn cần thiết giống như nó được tất cả mọi người thừa nhận ”.

Trong suốt hàng nghìn năm tồn tại, các nhà nước chủ nô luôn tiến hành các cuộc chiến ữanh liên miên, chinh phạt, thôn tính lẫn nhau dẫn đến nhiều nhà nước bị xoá bỏ, thay vào đó là sự lớn mạnh của một số nhà nước khác. Tuy nhiên, nhà nước chủ nô tồn tại và phát triển trong điều kiện đối kháng gay gắt giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ cho nên nhất định nó phải bị diệt vong, nhường chỗ cho một kiểu nhà nước mới từng bước hình thành, nhà nước phong kiến.

Luật Minh Khuê (sưu tầm & biên tập)

X

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Phân tích được vai trò của nô lệ đối với chế độ chiếm hữu nô lệ ở phương đông cổ đại

Nô lệ phục vụ trong bữa tiệc. Được tìm thấy ở Dougga, Tunisia, thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên (Dennis Jarvis_Flickr)

Nguyễn Tuấn Hùng

Xã hôi loài người từ thuở khai sinh cho đến lúc hình thành nhà nước đã trải qua nhiều hình thái kinh tế khác nhau. Ở mỗi hình thái kinh tế, đều có những đặc điểm riêng, không thể hòa lẫn với nền chính thể nào. Theo Mác thì ở Phương Tây đã tồn tại hình thái gọi là “Chiếm hữu nô lệ” và đặc trưng của hình thái này không thể không nhắc đến tầng lớp “nô lệ”; vốn được xem là nguồn thúc đẩy phát triển của hình thái kinh tế ấy. Vì vậy, đề tài này mong muốn có thể tìm hiểu được phần nào vai trò của tầng lớp nô lệ trong xã hội phương Tây; mà đặc biệt ở đây là vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại.

Bài viết mong muốn cung cấp một phần nhỏ những kiến thức cơ bản về vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại; giúp người đọc có thể hình dung về một thời kỳ của lịch sử phương Tây cổ đại mà tiêu biểu là quốc gia Hy Lạp- La Mã cổ đại. Từ đó, cho chúng ta nhiều suy nghĩ và kết luận về vai trò của nô lệ cũng như thiết chế chiếm hữu nô lệ ở hai quốc gia này. Từ đó, có thể rút ra cho mình những vấn đề của nô lệ, hình dung một cách khái quát nhất vai trò của tầng lớp này đối với sự phát triển và suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp- La Mã cổ đại. Vận dụng trong bài viết là hai phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu sử học gồm phương pháp sử học và phương pháp logic. Thu góp những kiến thức từ nguồn sử liệu thành văn và những bài viết có liên quan đến đề tài để xây dựng nên bài viết, từ những nguồn đã có sẵn, phương pháp logic dùng để nêu lên quan điểm và vị trí đứng của người viết đối với vấn đề được nghiên cứu. Đóng góp phần nhỏ tri thức của người  viêt về vai trò của nô lệ dưới xã hội Hy-La cổ  đại; rõ ràng, nô lệ đã đóng một vai trò rất lớn trong sự tồn vong của chế độ chiếm hữu nô lệ nơi này.

1.Sơ lược vấn đề

Nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ trước hết là những người thuộc sở hữu và chịu quản lý trực tiếp của người khác gọi là chủ nô. Và dường như nô lệ không có bất cứ một quyền hạn gì trong xã hội; họ không có sự tự do hoạt động theo bản năng, và cũng hầu như không được trả lương  hay phí để sinh hoạt, ngoài những nhu cầu thiết yếu không thể thiếu như thức ăn, quần áo và chỗ ở. Nhưng đôi khi những nhu cầu thiết yếu ấy lại còn không được đáp ứng đúng như một con người bình thường. Trong xã hội của Hy-La cổ đại chính là như vậy. Khi trong chính quốc gia ấy hình thành nên thể chế chiếm hữu nô lệ thì rõ ràng, trong xã hội ta nhìn thấy khá nét hai tầng lớp chủ đạo: chủ nô- nô lệ. Và người nô lệ dẫu bị đạp đổ đến tận cùng của xã hội nhưng họ lại đóng một vai trò vô cùng quan trọng và dường như đây chính là nguồn thúc đẩy hay động lực để kinh tế, xã hội chiếm hữu nô lệ của Hy-La cổ đại phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. 

2.Nô lệ dưới thời Hy Lạp cổ đại

Người Crete trong quá trình xây dựng nền văn minh ở khu vực biển Aegean đã dựng nên ở nơi đây một quốc gia chiếm hữu nô lệ, lấy thành Cnosso làm thủ đô, và xây dựng các thành thị khác như Mallia, Phaisto, Gounia…Có thể nói, nô lệ đã mầm mống xuất hiện ngay từ thời gian này.

Thời kỳ Homer, hầu như nô lệ ở thời điểm này chưa bị chủ nô, quý tộc đối xử tàn nhẫn nhưng bắt đầu từ đây, xã hội đang dần hình thành trong lòng nó tầng lớp nô lệ và sau này tầng lớp ấy trở thành tầng lớp bị bóc lột trong xã hội chiếm hữu nô lệ sau này.

Từ thế kỷ VIII đến thế kỷ V TCN, quý tộc theo thời gian cũng tích lũy nhiều cho mình tư liệu sản xuất và sống dựa vào sự lao động của dân nghèo và nô lệ đang dần hiện hữu. Nô lệ cũng dần xuất hiện nhiều hơn khi những thành viên của xã hội thị tộc cũ bị phân hóa, một số bị tước ruộng đất phải làm nô lệ vì nợ; số lượng chủ yếu là từ nô lệ chiến tù, nô lệ mua bán từ những chợ nô lệ. Ở thế kỷ VI TCN, đảo Kyosk đã xuất hiện những chợ nô lệ và nô lệ vì nợ.

Thời nhà nước Sparta: Người Sparta tức người Dorian với sự chiến thắng đã là giai cấp cầm quyền, họ bắt đầu sự nô dịch, bóc lột sức lao động của người Perioikoi và nô lệ Hilotes là cơ bản nhất. Không nói đến người Perioikoi, nô lệ người Hilotes chiếm số lượng đông đảo (khoảng 200.000 người). Hilotes được coi là nô lệ chung của nhà nước. Nô lệ này được gắn chặt vào ruộng đất, phải lao động sản xuất và hưởng một phần thu hoạch. Nô lệ Hilotes không có quyền lợi về chính trị, thân thể, tư pháp nhưng vẫn được có gia đình riêng, có thu nhập riêng, lệ thuộc vào chủ nô nhưng lại là sở hữu chung của nhà nước .

Thời kỳ thành bang Athens: Với sự phát triển mau lẹ, quan hệ hàng hóa và tiền tệ ở đây đã  phát triển từ lâu và nhanh chóng. Xã hội có giai cấp dần xuất hiện, trong lúc đó, dân tự do và nông dân dần dần bị tầng lớp quý tộc đặt ách nô dịch và cùng thời điểm ấy, vì nợ nần mà họ bị biến thành nô lệ. Nông dân vùng Attique bị đặt ách nô dịch nợ nần, để trả nợ họ phải nộp 5/6 hu hoạch của mình cho giai cấp chiếm hữu ruộng đất lớn. Ai không làm đúng hẹn sẽ bị đem bán làm nô lệ. Khi mâu thuẫn dần hình thành rõ nét thì hai cuộc cải cách mang tính bước ngoặt của Solon (đầu thế kỷ VI TCN) và Cleisthennes (cuối thế kỷ VI TCN) là hai cuộc cách tân quan trọng trong lịch sử cũng như đối với tầng lớp nô lệ.

Chiến tranh Hy Lạp- Ba Tư (499-448 TCN): Là một trong hai cuộc chiến tranh lớn của lịch sử Hy Lạp, vì vậy lực lượng quân đội sẽ trở nên rất thiết yếu cho lúc bấy giờ. Người Athens thời kỳ này đã sử dụng toàn bộ sức lực để chiến đấu và đã tuyên bố những nô lệ tham gia chiến đấu sẽ được thả tự do. Sau, người Athens đã  đuổi người Ba Tư ra khỏi Tharce; một số tác giả cổ đại nói rằng sau một chiến dịch nào đó, người Athens đã đem bán 20.000 tù binh làm nô lệ. Cuộc chiến thành công không thể không nhắc đến sự huy động lực lượng từ các tầng lớp, trong đó nô lệ không thể thiếu.

Athens từ thế kỷ V đến IV TCN: Nô lệ thời kỳ này trở thành một loại “hàng hóa” được người Athens quan tâm. Lực lượng này trở thành động lực sản xuất cơ bản của chế độ chiếm nô khu vực Địa Trung Hải. Cảng Piraues cũng là trung tâm nhập và xuất hàng đoàn nô lệ. Piraeus, Delos,… trở thành những trại mua bán nô lệ vào loại bậc nhất thế giới cổ đại. Với nền kinh tế chiếm hữu nô lệ, thì vai trò của tầng lớp này cũng giữ trọng yếu trong sản xuất ra của cải cho xã hội. Nô lệ xuất hiện ở khắp nơi và ở mọi ngành nghề trong xã hội; là lực lượng chèo thuyền chủ yếu và là những người lao động nặng nhọc ở các hầm mỏ; số lượng nô lệ thời kỳ này ước tính khoảng  365.000 trong khi dân tự do chỉ có 90.000 người. Nô lệ thời kỳ này bị xem như “của cải di động” và là một thứ “công cụ biết nói” phục vụ cho  giới cầm quyền.

Chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp phát triển đến mức nó đạt đến sự hoàn hảo khi đã phân công lao động khá rõ ràng trong xã hội,  tạo nên lao động chân tay- lao động trí óc và nhờ vậy tầng lớp trí thức có thêm thời gian để nghiên cứu khoa học, triết học,… Đến thế ky IV TCN, số nô lệ do tư nhân quản lý vẫn còn hàng chục hoặc hàng trăm. Nô lệ  trở thành lực lượng lao động chính cho xã hội đương thời.

Sang thế kỷ III TCN, chế độ nô lệ dần không phát triển được nữa, những cuộc thí nghiệm chia đất cho nô lệ và nông dân phá sản đã diễn ra. Đây có thể là tiền đề đầu tiên để xã hội Hi Lạp chuyển sang phương thức sản xuất phong kiến.

3.Nô lệ dưới thời La Mã cổ đại

Khi phương thức sản xuất mới đang dần hình thành thì sự chinh phục của La Mã  vào cuối thế kỷ III TCN – đầu thế kỷ II TCN đã cắt đứt con đường hình thành mầm móng ấy.

La Mã thời cộng hòa: Với nhiều chiến thắng liên tiếp, La Mã đã dành về cho mình nhiều phần lợi khác nhau trong đó có nguồn lợi về nô lệ. Đánh thắng Tarent, La Mã bán 30.000 tù binh làm nô lệ, cuộc chiến Cartage đã cung cấp cho La Mã 95.000 tù binh làm nô lệ (lần thứ nhất: 25.000 nô lệ; lần thứ hai: 20.000 nô  lệ; lần thứ ba: 50.000 nô lệ), hay với chiến thắng ở Sardinia, La Mã đã nắm trong tay 80.000 tù binh biến thành nô lệ…Những chợ buôn nô lệ mọc lên mỗi một nhiều, trong đó ở vùng Địa Trung Hải có thể nhắc đến chợ buôn nô lệ Delos (biển Aegean), Active (Italia),… Nô lệ từ vùng đông của Địa Trung Hải đều được đưa đến Delos, có khi một ngày có thể bán được 10.000 nô lệ. Chính những điều kiện này đã thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế và chế độ chiếm hữu nô lệ của thời kỳ cộng hòa.

Với sự hình thành và phát triển loại hình kinh tế nông nghiệp Latifundia, sức lao động của nô lệ cũng được tập trung với phương thức sản xuất độc canh. Số nô lệ phục vụ cho loại hình kinh tế này có thể đến hàng ngàn nô lệ. Nông dân tự do bị đẩy lùi xuống vị trí thứ yếu và lực lượng chủ yếu cho loại hình kinh tế này là lực lượng nô lệ; thúc đẩy sự phát triển của chế  độ chiếm hữu nô lệ cùng với sự phát triển của loại hình kinh tế nông nghiệp Latifundia.

Về mặt công nghiệp và thương mại: Các xưởng thủ công phát triển và mỗi lúc có xu hướng chuyên môn hóa trong mỗi xưởng, các vùng ở La Mã. Cùng với đó, giới quý tộc chủ nô La Mã thừa cơ hội ấy đã lập nên nhiều công xưởng tư cho mình. Những công trường chế biến dầu oliu, đóng thuyền, khai thác hầm mỏ hay như công trường khai thác mỏ bạc ở Tây Ban Nha đã sử dụng rất nhiều nô lệ (ước tính lên đến 40.000 nô lệ).

Từ những vấn đề trên, có thể thấy nguồn gốc nô  lệ ở La Mã cũng từ rất nhiều nơi khác nhau: nô lệ quan trọng nhất là tù binh, nô lệ vì nợ, người dân bị cướp biển bắt cóc làm nô lệ, nô  lệ do nữ nô sinh ra, còn có một số lượng nhỏ nô lệ có nguồn gốc từ đám trẻ lang thang, mồ côi vô thừa nhận được gia chủ đem về nuôi và biến thành nô lệ. Nguồn nô lệ ở La Mã được cung cấp từ những nguồn không giống nhau, tính bất ổn cao và không có sự đồng đều. Trong số lượng ấy nô lệ là tù binh vẫn là nguồn cung cấp thiết yếu nô lệ cho chế độ chiếm nô La Mã.

Với nền kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh đặc biệt là với mô hình Latifundia đã giúp thúc đẩy kinh tế La Mã đi lên. Vì vậy mà vai trò của nô lệ càng ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nông nghiệp ấy. Ở thời kỳ này công cụ lao động vẫn còn thô sơ, lạc hậu, nên nô lệ hầu như làm việc cả ngày và đảm nhận toàn bộ công việc mà công cụ không thể làm được. Mọi công việc từ canh tác, làm đất, gieo trồng đến chăm sóc thu hoạch mùa màng thì nô lệ vẫn giữ vai trò quản lý. Nô lệ cũng được trực tiếp sử dụng trong các hầm mỏ của chủ nô; nô lệ được sử dụng làm sức lao động khuân vác trong các thương thuyền ở Địa Trung Hải; ở gia đình của các trưởng nô nô lệ được dùng từ những công việc đơn giản nhất như quét dọn nhà cử, giữ ngựa, nấu bếp đến những công việc phức tạp như nhạc công, vũ nữ, giáo viên, thu ký, … . Nô lệ cũng được sử dụng như một trò mua vui cho giới chủ nô khi họ bị biến thành những đấu sĩ đấu với nhau hoặc phải đấu với thú dữ. Nô lệ được coi là thứ “công cụ biết nói”, là “công cụ di động” của giới chủ nô trong thể chế chiếm hữu nô lệ La Mã và được pháp luật quốc gia này thừa nhận, qui định.

Đời sống nô lệ vô cùng cực khổ khi họ phải vác trên mình phương châm “sử dụng nhiều nhất nhưng chi phí ít nhất” của bọn chủ nô. Họ phải làm việc quanh năm và số lượng ngày nghỉ chỉ đếm trên đầu ngón tay; họ làm việc cật lực trong các hầm mỏ, xưởng thủ công, các bến cảng, các thuyền buôn, thuyền chiến và đặc biệt là trong các Latifundia. Họ bắt lao động khổ sai, đói khát, bệnh tật luôn hiện hữu với những người làm nô lệ hoặc như chiến tù Cartage phải bị bắt lao động trong khi chân vẫn phải đeo xiềng xích. Chính sức lao động của nô lệ đã tạo nên những nguồn lợi kinh tế dồi dào; thiết lập nên cuộc sống vươn giả cho giới chủ nô. Có lẽ vì vậy mà nền kinh tế của xã hội La Mã luôn trong tình trạng phồn thịnh nhưng mặt khác lại làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ mỗi lúc một suy yếu.

Trong thời kỳ cực thịnh của chế độ chiếm hữu nô lệ La Mã (thế kỷ I và II): Nền kinh tế thời này đã có những bước phát triển mới trong lĩnh vực thủ công nghiệp, thương nghiệp, … . nô lệ vẫn được sử dụng là lực lượng lao động chính ở các xưởng thủ  công của nhà nước hay tư nhân. Từ những năm cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III đã xuất hiện một hiện tượng mới trong nền kinh tế nông nghiệp La Mã khi một số ít Latifundia dã bắt đầu sang cây lương thực hoặc một số chủ nô đã chủ động chia nhỏ các ruộng đất của mình thành các ruộng nhỏ hơn cùng với một số công cụ lao động và giao cho nô lệ quyền tự do sản xuất.

La Mã thời kỳ khủng hoảng và suy vong (thế kỷ III – IV): Chế độ chiếm hữu nô lệ đã dần bộc lộ những dấu hiệu suy thoái khủng hoảng nghiêm trọng khi số lượng nô lệ ngày càng giảm sút; nô lệ tù binh cũng giảm vì không còn nhiều cuộc chiến tranh như trước; sự giảm sút ấy đã dẫn đến một hiện trạng tất yếu của thời cuộc khi lực lượng sản xuất chính của xã hội đã không còn dồi dào như trước. Sự bóc lột nặng nề cùng với khối lượng công việc lớn đã làm giảm sút chất lượng cũng như sức lao động của nô lệ; năng suất lao động ngày càng giảm sút khi nô lệ đang dần tìm mọi cách để phá hoại kinh tế của chủ nô. Sự khủng hoảng và dần đi đến sự suy vong của chế độ chiếm hữu nô lệ đã đặt ra cho giới chủ nô La Mã một yêu cầu trước mắt là cần phải thay đổi cách đối xử cũng như phương thức sử dụng nô lệ. Trong khi nhà nước đang cố gắng cứu vãn cho chế độ ấy khỏi sự sụp đổ  thì giới quý tộc chủ nô ruộng đất đã có những bước đi mới khi dần hình thành nên chế độ mới gọi là lệ nông – tiền thân của giai tần nông nô dưới chế độ phong kiến.

4.Tổng quan về vai trò

Rõ ràng, hình thái chiếm hữu nô lệ với vai trò của nô lệ trong xã hội Hy Lạp- La Mã cổ đại có một tầm quan trọng mà không ai có thể phủ nhận. Người nô lệ ở thời kỳ này chính là nguồn động lực thúc đẩy kinh tế phát triển, nhưng đồng thời cũng gây nên nhiều mâu thuẫn xã hội gay gắt mà phần thắng lúc nào cũng nghiêng về phía chủ nô; nô lệ không có bất cứ quyền hành gì ngoài việc chỉ biết phục tùng chủ nhân của mình. Điều này đã hình thành nên những xáo trộn trong lòng xã hội của Hy-La nhưng không vì thế mà nó ngăn cản sự phát triển đi lên của kinh tế cũng như sự giàu mạnh của quốc gia.

Nô lệ luôn luôn phải chịu sự nô dịch nặng nề của giới chủ nô dù muốn hay không. Họ còn là những thành phần tham gia trực tiếp trong những cuộc  chiến tranh và sau những cuộc chiến ấy, họ không chỉ không có được thành quả nào nào mà có khi chính họ lại bị biến thành một “vật phẩm” để những kẻ thua cuộc cống nạp cho kẻ dành chiến thắng. Vai trò của nô lệ vì vậy cũng trở nên “linh hoạt” đối với xã hội Hy- La cổ đại.

Người nô lệ luôn bị coi như là “món hàng”, một thứ “công cụ biết nói” hay thậm chí là một thứ “đồ vật” vô giá trị của chủ nô. Họ phải làm việc cật lực và liên tục trong những môi trường độc hại. Vai trò của họ không được đề cao nhưng chính họ lại là tầng lớp duy nhất trong xã hội làm ra của cải dồi dào. Chủ nô nắm mọi quyền hành chính trị. Nhà nước gồm nhiều bộ phận do dân tự do hay quý tộc bầu ra và làm việc theo thời hạn, giải quyết mọi việc trong nước và các cuộc chiến tranh. Chủ nô ở Hy Lạp-La Mã không bao giờ phải lao động chân tay, mà chỉ làm chính trị hoặc hoạt động văn hóa, nghệ thuật vì bản thân họ coi lao động chân tay là công việc dành riêng cho nô lệ và mình không phải là người phải làm những công việc thấp hèn ấy. Họ có một cuộc sống sung sướng, nhàn hạ mà không phải lo về của cải, vật chất;  mọi thứ họ đều áp đặt lên cho tầng lớp nô lệ; họ luôn luôn trong tư thế sẵn sàng đưa sự nô dịch, sự bóc lột sức lao động lên trên tầng lớp  nô lệ mà không cần phải suy nghĩ.

5.So sánh với nô lệ phương Đông

Ở Phương Tây, mà đại biểu ở đây là Hy Lạp- La Mã cổ đại theo như học thuyết của Mác – Lênin, chế độ chiếm hữu nô lệ ở đây mang tính chất điển hình (hay còn gọi là kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ điển hình). Sự điển hình thể hiện ở tính chất, số lượng và vai trò nô lệ trong các ngành sản xuất. Hy Lạp và La Mã là nơi mà số lượng nô lệ hết sức đông đảo, là lực lượng lao động chính tạo ra của cải và sự giàu có cho chủ nô. Nô lệ là lực lượng lao động chính trong xã hội. Mọi của cải đều nhờ sức lao động của nô lệ mà có : từ việc sản xuất lúa gạo ở các trang trại đến việc làm ra các sản phẩm thủ công như giày dép, quần áo v.v… Họ cũng là những người phục vụ trong các gia đình quý tộc, quan lại như những con hầu, đầy tớ.

Còn ở nhà nước Phương Đông cổ đại nhiều lại mang một cái tên khác là kiểu nhà nước Châu Á (hay Phương thức sản xuất châu Á) mang những đặc trưng riêng. Ở các nước phương Đông, thiết chế chính trị của nhà nước chiếm hữu nô lệ là quân chủ chuyên chế tập quyền, trong khi đó Hy Lạp lại thiết lập nhà nước Cộng hòa dân chủ chủ nô, ở La Mã là nhà nước Cộng hòa quý tộc chủ nô. Khác với Phương Tây, chế độ nô lệ Phương Đông lại không mang tính chất điển hình, mà mang nặng tính chất gia trưởng hay còn được gọi là kiểu nô lệ gia trưởng, điều đáng nói ở đây là nô lệ thời kì này không là phải lực lượng dồi dào và mang sự chủ đạo chính trong xã hội, mà chủ yếu nô lệ ở các quốc gia cổ đại phương Đông chỉ phục cụ trong gia đình các quý tộc. Nô lệ có nguồn gốc xuất thân chủ yếu từ các tù binh chiến tranh, hoặc những người nông dân, thợ thủ công bị phá sản,  nô lệ vì nợ có nhưng khôn nhiều.

Qua những dẫn cứ trên, có thể nói vai trò của nô lệ trong thời kỳ Hy Lạp- La Mã cổ đại là vô cùng quan trọng. Đây chính là nguồn cơn của mọi sự việc trong đời sống; cũng là tầng lớp chịu nhiều thòi nhất ở đương thời nhưng lại là nguồn lao động và là nguồn tạo của cải vật chất, nguồn phục dịch cho chiến tranh của các quốc gia, cho xã hội đương thời. Ta có thể thấy rõ nô lệ đã trở thành một tầng lớp chủ đạo trong suốt thời kỳ chiếm hữu nô lệ của phương Tây cổ đại mà tiêu biểu ở đây là Hy Lạp và La Mã cổ đại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Đặng Văn Chương (chủ biên-2014), Nguyễn Thị Ty, Trần Đình Hùng, Lịch sử Thế giới cổ trung đại, Nhà xuất bản đại học khoa học Huế
  2. Lương Ninh (chủ biên-2005), Đinh Ngọc Bảo, Đặng Quang Minh, Nguyễn Gia Phu, Nghiêm Đình Vỳ, Lịch sử thế giới cổ đại, Nhà xuất bản giáo dục