Phương thức lãnh đạo là gì

Hệ thống chính trị và phương thức lãnh đạo của đảng đối với hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay

Chuyên đề 3
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
------------

I- HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1. Khái niệm “hệ thống chính trị”
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định. Đó là hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong xã hội, bao gồm các đảng phái chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội được liên kết với nhay trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp nhà nước nhằm thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền. Do đó, hệ thống chính trị mang bản chất giai cấp. Trong chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là chủ thể thực sự của quyền lực, tự mình tổ chức và quản lý xã hội, quyết định nội dung hoạt động của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp khác được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam, thực hiện và bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
2. Đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
a] Tính nhất nguyên chính trị
- Chế độ chính trị Việt Nam là thể chế chính trị một Đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thế chế nhất nguyên chính trị, không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
- Hệ thống chính trị Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập, vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân [Nhà nước], tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng [Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội], vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
- Tính chất nguyên chính của hệ thống chính trị được thể hiện ở tính nhất nguyên tư tưởng. Toàn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
b] Tính thống nhất
- Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trò, chức năng khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát hiện sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống.
- Tính thống nhất của hệ thống chính trị nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương, với các bộ phận hợp thành.
c] Gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân
- Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị Việt Nam. Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị [như Đảng, Nhà nước], các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội [như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội khác]. Do vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội [như những lực lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột], mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hộ. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
- Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu tố:
+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
d] Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị
- Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị nước ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
- Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
- Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, cũng đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
3. Mục tiêu, quan điểm và chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng [tháng 4-2006] đã xác định mục tiêu, quan điểm, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.
a] Mục tiêu và quan điểm
- Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt hơn dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
- Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị gồm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị thể hiện trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Trong những năm đầu, Đảng tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Quá trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định sự kết hợp nhuần nhuyễn và bước đi đúng đắn đó. Đến Đại hội X, Đảng đã xác định đổi mới toàn diện, bao gồm đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo những nguyên tắc xác định.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đó là quá trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu quả hơn, phù hợp với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
b] Chủ trương, giải pháp xây dựng hệ thống chính trị
Một là, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định rõ bản chất của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” . về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác định rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phân của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” . Điều đó là cơ sở của sự gắn bó giữa xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị.
- Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã chỉ rõ các mục tiêu giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các mặt của công tác xây dựng Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó không phải là sản phẩm riêng của xã hội tư bản chủ nghĩa mà là sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người của nền văn minh nhân loại.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo năm đặc điểm sau đây:
+ Đó là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công ràng mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
+ Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
+ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.
- Để xây dựng Nhà nước pháp quyền cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàng thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công đoàn… duy trì dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị; thực hiện “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” và dân thụ hưởng những thành quả của sự nghiệp đổi mới.
Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phô trương, hình thức để nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
II- VAI TRÒ VÀ PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Trong hệ thống chính trị nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền. Đó là sự lựa chọn của dân tộc ta, là một tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan. Sự lãnh đạo ấy vừa có cơ sở đạo lý, vừa có cơ sở pháp lý.
- Khi trở thành một Đảng duy nhất cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng được thực hiện trong mối quan hệ khá phức tạp và nhạy cảm với cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước pháp quyền và trong các điều kiện xây dựng, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước, mà biểu hiện tập trung nhất là bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải phân định sự lãnh đạo của Đảng đối với vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước.
- Trong tổ chức của hệ thống chính trị, Đảng ta vừa là lực lượng lãnh đạo toàn bộ hệ thống, vừa là thành viên trong hệ thống chính trị. Điều đó cũng đòi hỏi phải xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, tư cách thành viên của Đảng và khả năng độc lập của mỗi thành viên thuộc hệ thống chính trị trong các mối quan hệ chính trị và sinh hoạt dân chủ.
- Trong thực tiễn, vai trò và sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn được xác định trong từng mối quan hệ với từng thiết chế, tổ chức cụ thể trong hệ thống chính trị. Vai trò cầm quyền và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước khác với sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc hoặc đối với các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Sự mơ hồ, thiếu cụ thể nào đó đều có ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống chính trị của đất nước, hoặc là Đảng sẽ bao biện, làm thay tất cả, hình thức hóa Nhà nước và hệ thống chính trị, hoặc là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm cho địa vị cầm quyền của Đảng chỉ tồn tại trên danh nghĩa.
- Sự lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị hiện nay đặt trong điều kiện mới, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy mạnh mẽ nền dân chủ trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị, Đảng phải tự đổi mới và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Tăng cường mối quan hệ của Đảng với các thành tố của hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
2. Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Vị trí cầm quyền của Đảng thể hiện quyền hạn trách nhiệm chung của Đảng và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc quyết định các vấn đề của đất nước, các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội ở các cấp, các ngành, trong các mối quan hệ với Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội.
- Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất lãnh đạo về chính trị và tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.
- Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, bảo đảm tính định hướng chính trị cho sự phát triển đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội định hướng tới mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3. Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị
- Phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền là hệ thống những phương pháp, hình thức, biện pháp, quy trình, lề lối làm việc, tác phong công tác mà Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng xã hội, các tổ chức, cá nhân nhằm biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành nhận thức và hành động của đối tượng lãnh đạo, qua đó thực hiện được các nhiệm vụ cách mạng do Đảng đề ra.
- Nội dung cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh năm 1991 của Đảng, gồm:
+ Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
+ Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể.
+ Đảng không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
+ Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật .
- Ngoài những điểm nêu trên, Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân từ uy tín của Đảng, từ sự đề cao và tôn trọng vai trò của Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Sự lãnh đạo thật sự của Đảng không chỉ thông qua các quyết định, các chỉ thị mà còn bằng uy tín, bằng khả năng thuyết phục trong lời nói, trong hành động, trong phong cách công tác của các tổ chức đảng và của từng cá nhân cán bộ lãnh đạo, đảng viên của Đảng.
- Giống như nội dung sự lãnh đạo của Đảng, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng luôn là một yêu cầu có tính khách quan, một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng và nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Yêu cầu khách quan này luôn được Đảng ta quán triệt và nhấn mạnh trong các văn kiện Đại hội và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương.
III- MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM VÀ CÁC TỔ CHỨC CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
- Trong lịch sử cách mạng nước ta, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội giữ vai trò rất quan trọng. Các tổ chức này đã động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân trong đấu tranh giành chính quyền, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, đấu tranh thống nhất đất nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội là thành viên đã có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự hình thành và củng cố Nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam. Điều 9 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 khẳng định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, củng cố Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước” .
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là những bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta, được hình thành nhằm đáp ứng những lợi ích đa dạng của cách thành viên; thu hút đông đảo nhân dân tham gia quản lý các công việc nhà nước, công việc xã hội; nâng cao tính tích cực của mỗi công dân. Trong xã hội ta, nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình không chỉ bằng Nhà nước mà còn thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Vì vậy, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội là những tổ chức hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản, đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị tùy theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bào vệ quyền làm chủ của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt nam, các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thực hiện vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
- Các tổ chức chính trị - xã hội có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hóa và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Cùng với hình thức tổ chức của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở gồm: Tổ chức cơ sở đảng; Hội đồng nhân dân các xã, phường; Ủy ban nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường; các tổ chức chính trị khác: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh ở xã, phường, thị trấn…
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
2. Nhiệm vụ chính trị của người cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở cơ sở
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở nước ta. Vì vậy, nhiệm vụ chính trị của người cán bộ Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là rất to lớn, quan trọng, trực tiếp góp công, góp sức xây dựng hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh.
Căn cứ yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển hệ thống chính trị ở cơ sở, có thể nêu những nhiệm vụ cụ thể của mỗi cán bộ Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở là:
- Tham gia tích cực vào cuộc vận động xây dựng, chính đốn Đảng, xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh.
- Thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
- Tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, mạnh dạn đấu tranh với những hành động sai trái, bảo vệ lợi ích thiết thực, hợp pháp và chính đáng của nhân dân.
- Tích cực tham gia và thực hiện tốt Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, hăng hái đi đầu trong mọi lĩnh vực học tập và công tác.
- Luôn luôn học tập, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tích cực hưởng ứng và tham gia hoạt động trong phong trào do các tổ chức chính trị - xã hội phát động; trực tiếp tham gia xây dựng tổ chức của mình ngày càng phát triển mạnh mẽ và bền vững./.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

Thứ Bảy, ngày 30 tháng 10 năm 2021 - 14:31 Đã xem: 4863
  • A+
  • A-

Đảng Cộng sản Việt Nam là Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của dân tộc.

Ảnh minh họa. Nguồn ảnh: Internet

Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội, Đảng được thực hiện thông qua 05 phương thức sau:

1- Đảng đề ra Cương lĩnh, Chiến lược và các chủ trương, chính sách lớn để lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân thực hiện;

2- Đảng tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, giải thích, hướng dẫn cán bộ, đảng viên và Nhân dân biết, tự giác thực hiện, đưa chủ trương, đường lối của Đảng vào cuộc sống;

3- Đảng lãnh đạo, quyết định công tác tổ chức, cán bộ của cả hệ thống chính trị. Đảng phân công, giới thiệu những đảng viên ưu tú của Đảng với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội để bầu giữ các vị trí lãnh đạo trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội;

4- Đảng kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối, của Đảng; thường xuyên sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm để hoàn thiện và kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh những sai sót, lệch lạc;

5- Đảng lãnh đạo bằng sự gương mẫu của đảng viên công tác trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Như vậy, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên không chỉ là trách nhiệm của người đảng viên, mà còn là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội. Trong mấy năm vừa qua, Ban Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, người đứng đầu cấp ủy, đảng viên có chức vụ càng cao thì càng phải gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi thực hiện đổi mới năm 1986 đến nay, Đảng ta rất coi trọng phương thức lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và toàn xã hội. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết về đổi mới, phương thức lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khóa X đã xác định rõ những yêu cầu trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; các nghị quyết Đại hội Đảng trong thời kỳ đổi mới đều đề cập đến nhiệm vụ, yêu cầu tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII nhận định: Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Đổi mới cách học tập, quán triệt nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có sự chuyển biến tích cực, rõ nét. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.

Trong những năm tới, Đảng ta xác định: Phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, phương pháp công tác, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến cơ sở theo hướng khoa học, tập thể, dân chủ, trọng tâm, gần dân, hiểu dân, vì dân, sát thực tiễn, cầu thị, học hỏi, nói đi đôi với làm. Đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, bảo đảm tốt các điều kiện để triển khai, thực hiện nghị quyết một cách hiệu quả… để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, Nhân dân hạnh phúc./.

N.T.B.H

1. Phương pháp lãnh đạo doanh nghiệp là gì?

Khái niệm.

Phương pháp lãnh đạo doanh nghiệp là tổng thể các cách thức tác động có chủ đích trong hoạt động của nhà lãnh đạo. Cách thức có thể có của người lãnh đạo lên các nguồn lực của doanh nghiệp. Với các phương pháp được nhà lãnh đạo đề ra trên cơ sở hoạt động của doanh nghiệp. Dựa trên nhu cầu và động cơ làm việc của con người cùng với các nguồn lực khác của doanh nghiệp. Mục đích cuối cùng nhằm đạt được các mục tiêu quản trị đề ra.

Khi thể hiện là một phương pháp, nó phải là hệ thống các chiến lược hay hoạch định của nhà lãnh đạo. Nhằm triển khai các hoạt động cho thực hiện mục tiêu quản trị. Với hoạt động của một doanh nghiệp, các yếu tố hình thành và tác động rất đa dạng. Do đó hoạt động quản trị cần đem đến hiệu quả. Từ đó mà doanh nghiệp có thể hoạt động ổn định, khai thác đối đa tiềm lực và hiệu quả kinh doanh. Quản trị giúp cho quá trình điều hành, kiểm soát tốt hoạt động của doanh nghiệp. Đó là yếu tố giúp nhà lãnh đạo quản lý doanh nghiệp.

Nhà lãnh đạo doanh nghiệp chính là người đưa ra phương hướng hoạt động. Điều khiển các yếu tố như nguồn vốn, nhân lực, nguồn lực,.. Lãnh đạo hiệu quả sẽ giúp khai thác nhiều lơi ích cho doanh nghiệp. Từ đó mang đến lợi ích cho chính bản thân nhà lãnh đạo và thu nhập cao cho nhân viên.

Phân tích khái niệm.

Phương pháp này được thực hiện trong nội bộ hoạt động của doanh nghiệp. Nó đòi hỏi các kỹ năng và trình độ trong quản trị của nhà lãnh đạo. Đương nhiên việc thực hiện hay áp dụng phương pháp phải dựa trên căn cứ yếu tố trong doanh nghiệp. Do đó mà không có công thức chung nào trong việc áp dụng phương pháp lãnh đạo này. Tuy nhiên, việc xem xét lựa chọn phương pháp vẫn phải dựa trên các căn cứ thực tiễn và yêu cầu khi lựa chọn. Đó là căn cứ giúp nhà lãnh đạo xác đinh đúng công việc khi thực hiện mục tiêu quản trị.

Phương pháp lãnh đạo là biểu hiện cụ thể của mối quan hệ qua lại giữa chủ thể với đối tượng và khách thể. Khi con người thực hiện các hoạt động tác động vào đối tượng khác. Khi mà các yếu tố xung quanh luôn diễn biến không ngừng và tạo ra các ảnh hưởng nhất định. Phương pháp thể hiện mối quan hệ giữa những con người cụ thể, sinh động với tất cả sự phức tạp của đời sống. Nhà lãnh đạo cần xem xét tác động với các doanh nghiệp khác, tạo thế cạnh tranh. Bên cạnh loại bỏ các tác động bất lợi và sử dụng triệt để lợi thế.

Phương pháp lãnh đạo doanh nghiệp hiệu quả.

Vì vậy, các phương pháp lãnh đạo mang tính chất hết sức đa dạng và phong phú. Lãnh đạo cũng tác động trực tiếp đến các chính sách hay chiến lược phát triển doanh nghiệp. Là hệ quả phản ánh hiệu quả hoạt động. Do đó, mặc dù tính khái quát nhưng phải được nhà lãnh đạo định hướng cụ thể. Đó là vấn đề cần phải đặc biệt lưu ý trong quản trị. Vì nó chính là bộ phận năng động nhất của hệ thống quản trị.

Các phương pháp lãnh đạo không có công thức chung cho các doanh nghiệp. Nó chỉ có thể trở thành bài học, kinh nghiệm sau khi được thực tế phản ánh. Phương pháp lãnh đạo không chỉ khác nhau đối với các doanh nghiệp khác nhau. Nó còn cần sự linh hoạt, biến đổi và phù hợp với từng giai đoạn cụ thể của doanh nghiệp. Do đó, nó thường xuyên thay đổi trong từng tình huống cụ thể. Tuỳ thuộc vào đặc điểm của đối tượng cũng như năng lực, kinh nghiệm của người lãnh đạo.

Xem thêm: Thuyết đường dẫn đến mục tiêu của người lãnh đạo là gì? Đặc trưng

Định hướng đổi mới phương thức lãnh đạo-cầm quyền của Đảng [phần 1]

Ngày phát hành: 13/02/2020 Lượt xem 5546

I. Một số vấn đề lý luận-thực tiễn về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị

Để nhận thức rõ nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đổi với hệ thống chính trị cần nhận thức rõ vấn đề Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền chế định như thế nào đối với phương thức lãnh đạo của Đảng.

1. Đảng lãnh đạo và đảng cầm quyền

Trong các văn kiện của Đảng, khái niệm: “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền” gần đây đã được sử dụng khá thường xuyên. Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta đã xác định: “Nghiên cứu, tổng kết, tiếp tục làm rõ quan điểm về Đảng lãnh đạo và Đảng cầm quyền làm cơ sở đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng một cách cơ bản, toàn diện”[1]. Đại hội XI tiếp tục xác định: “Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền”[2]. Xác định rõ nội hàm của các khái niệm “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền”, “Đảng lãnh đạo chính quyền” [và hệ thống chính trị nói chung] có vai trò quan trọng đối với việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị hiện nay, trong đó có vấn đề quan trọng là xây dựng tổ chức, bộ máy tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả.

Khái niệm “Đảng lãnh đạo” được hiểu là Đảng đề ra Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, tuyên truyền vận động nhân dân tin theo và Đảng lãnh đạo tổ chức thực hiện [Ví dụ, Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng, giành chính quyền]. Các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện vai trò tiền phong, gương mẫu, phụng sự Tổ quốc, phục vụnhân dân để giành được sự đồng tình, ủng hộ một cách tự nguyện của đại đa số nhân dân đối với Đảng, đi theo Đảng, kể cả khi Đảng chưa giành được chính quyền, nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng đề ra[3].

Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm Đảng lãnh đạo rất cụ thể và sâu sắc: “Lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và làm cho tốt”[4]; “Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ cấp nào và ngành nào - đều phải là người đày tớ trung thành của nhân dân”[5] , có như vậy nhân dân mới tin, tín nhiệm và đi theo.

Khái niệm “Đảng lãnh đạo” thể hiện các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, “Đảng lãnh đạo” là chỉ sự tác động, ảnh hưởng của Đảng bằng việc xác định được Cương lĩnh, đường lối, mục tiêu chính trị đúng đắn đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng cơ bản của đông đảo quần chúngnhân dân; các tổ chức đảng và đảng viên trở thành lực lượng tiên phong vận động, lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện.

Thứ hai, “Đảng lãnh đạo” không phải dựa vào quyền lực [hiểu theo nghĩa cưỡng bức, ép buộc] trong quá trình tác động đến đối tượng lãnh đạo là quần chúng nhân dân; mà vận động quần chúng nhân dân ủng hộ, đi theo Đảng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quần chúng nhân dân là sự vận động mang tính thuyết phục để nhân dân đi theo, ủng hộ, thực hiện Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng.

Thứ ba, “Đảng lãnh đạo” được hiểu như sự suy tôn của quần chúng nhân dân, thừa nhận Đảng là lực lượng lãnh đạo của mình.

Thứ tư, Đảng phải có năng lực thực tiễn tập hợp, tổ chức quần chúng bằng những hình thức thích hợp để tạo nên sức mạnh thực hiện đường lối của Đảng.

Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ rằng: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”[6]. Như vậy trong khái niệm “Đảng lãnh đạo” chứa đựng nội dung uy tín - tín nhiệm - thừa nhận - ủng hộ - đi theo của quần chúng nhân dân đối với Đảng, khi Đảng có cương lĩnh, đường lối đúng thể hiện được ý chí, nguyện vọng và lợi ích của đai đa số nhân dân. Trong bản chất, sự lãnh đạo của Đảng không có quyền lực áp đặt [nhất là quyền lực nhà nước, quyền lực pháp luật]; hay nói đúng hơn Đảng lãnh đạo bằng “quyền lực mềm”. Với đường lối đúng đắn, Đảng có thể đạt được vai trò lãnh đạo đối với các tầng lớp nhân dân ngay cả khi chưa giành được chính quyền.

Đảng cầm quyền

Cầm quyền là chủ thể lãnh đạo “nắm chính quyền”, trực tiếp lãnh đạo chính quyền. Đảng cầm quyền là Đảng được nhân dân giao [ủy thác] qua bầu cử, hay giành được bằng cách nào đó, quyền thành lập và lãnh đạo Nhà nước [Chính phủ].

Như vậy, khi Đảng được cầm quyền vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thể hiện qua sự tín nhiệm của nhân dân trao cho quyền thành lập và lãnh đạo Nhà nước; đồng thời Đảng thực hiện sự cầm quyền bằng cách thông qua nhà nước - bằng con đường pháp luật [pháp quyền] mà nhân dân ủy quyền cho nhà nước để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội.

Như vậy là Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước [Chính phủ], thông qua Nhà nước để cụ thể hóa, thể chế hóa, kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi các đường lối, chính sách của Đảng trên toàn xã hội. Có nghĩa là Đảng trực tiếp “có quyền lực nhà nước”, thông qua quyền lực nhà nước để thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của mình và qua Nhà nước để thực hiện chúng trong cuộc sống. Các quyết định của đảng [đường lối, chủ trương, chính sách] thể hiện qua “danh nghĩa” quyền lực nhà nước [quyền lực do người dân uỷ nhiệm], thông qua quá trình thể chế hóa dân chủ đã được pháp luật quy định, chứ không phải Đảng đưa ra các quyết định nhân danh đảng buộc nhà nước và xã hội phải tuân theo[7]. Khái niệm “Đảng cầm quyền” còn được hiểu là “đảng nắm chính quyền” bằng tổ các chức đảng và những người đại diện của đảng trực tiếp thực hiện công việc quản lý trong bộ máy nhà nước. Như vậy, Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực nhà nước. Tức Đảng có quyền lực chính trị bằng việc “nắm chính quyền” hay “nắm quyền lực nhà nước”. Không những thế, theo Lênin, khi đảng nắm được chính quyền thì đảng không chỉ có quyền lực chính trị, mà “với tư cách nhà nước, còn có thêm được quyền lực kinh tế”[8].

Như vậy, “Đảng cầm quyền” là khái niệm có những nội dung liên quan mật thiết đến “Đảng lãnh đạo”, nhưng có những nội dung khác với “Đảng lãnh đạo”. Đảng cầm quyền là một khái niệm gắn với quyền lực Nhà nước, còn “Đảng lãnh đạo” không tất yếu gắn với quyền lực Nhà nước. Khi Đảng cầm quyền đúng đắn, sáng suốt [khi có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn được đa số nhân dân tin theo; vẫn giữ được vai trò là người tiên phong đại diện cho ý chí nguyện vọng và lợi ích của tuyệt đại đa số nhân dân], phù hợp với Hiến pháp và pháp luật cũng có nghĩa là Đảng đồng thời vẫn giữ được vai trò là người lãnh đạo đối với xã hội. Khi một đảng tha hóa, biến chất, không đủ năng lực cầm quyền mà vẫn còn là đảng cầm quyền thì trên thực tế đảng đã bị “nhà nước hóa”, không còn giữ được bản chất và vai trò là người lãnh đạo của xã hội và đông đảo nhân dân, không được nhân dân tin theo; hoặc khi cầm quyền mà Đảng chủ yếu đề cao chức năng cầm quyền, coi và sử dụng Nhà nước như một công cụ để “quản lý” xã hội, hạ thấp chức năng lãnh đạo của Đảng, khi đó thực chất Đảng trở thành Đảng - Nhà nước [trường hợp này trên thế giới còn gọi là “Đảng trị”].

Khi Đảng cầm quyền, khái niệm “Đảng lãnh đạo Nhà nước” cần phải được nhận thức cho đúng. Ở đây là mối quan hệ giữa năng lực và uy tín sự lãnh đạo thực tế của Đảng gắn với quyền lực do sự “cầm quyền” của Đảng. Do vậy, hoạt động của Đảng vừa có sự lãnh đạo, vừa có sự cầm quyền, với các phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những nội dung khác nhau nhưng gắn bó mật thiết với nhau. Trong đó bản chất lãnh đạo đúng đắn, khoa học, “tất cả vì lợi ích của nhân dân” phải là nền tảng cốt lõi của sự cầm quyền của Đảng.

2. Phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng

Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống phương pháp, hình thức, biện pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện sự lãnh đạo [tác động lên] hệ thống chính trị và toàn xã hội nhằm hiện thực hóa Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối, quan điểm, mục tiêu của Đảng trong thực tiễn.

Phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng có những điểmgiống nhau và khác nhau. Điểm giống nhau chủ yếu ở chỗ: Sự lãnh đạo [cầm quyền] của Đảng đối với Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội đều nhằm hướng tới thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chính sách, mục tiêu do Đảng đề ra. Điểm khác nhau chủ yếu ở chỗ: Phương thức lãnh đạo của Đảng tập trung chủ yếu ở việc xác định đúng đắn đường lối, mục tiêu thể hiện trong Cương lĩnh, chủ trương, chính sách, nghị quyết của Đảng; ở tính thuyết phục của công tác tư tưởng, tuyên truyền, giáo dục để nhân dân tin tưởng, tự nguyện làm theo, thực hiện thắng lợi đường lối, mục tiêu của Đảng. Còn phương thức cầm quyền của Đảng tập trung chủ yếu ở thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước để thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế của Nhà nước và lãnh đạo - chỉ đạo tổ chức thực hiện bằng hệ thống pháp luật nhà nước nhằm thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách mục tiêu của Đảng đề ra. Như vậy, khi Đảng cầm quyền, phương thức cầm quyền của Đảng phải là sự kế tiếp, gắn kết hữu cơ - biện chứng với phương thức lãnh đạo.

Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng là hai mặt có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau khi Đảng cầm quyền. Để có và giữ vững địa vị cầm quyền, đòi hỏi Đảng phải có và giữ vững địa vị lãnh đạo, tức Đảng phải luôn có được vị trí tiền phong bởi các đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, luôn được nhân dân tin yêu, đồng tình ủng hộ. Mặt khác, Đảng còn phải thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền của mình, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cao trong quản lý của Nhà nước bởi đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng trong các cơ quan quyền lực nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống. Đặc biệt là phải có đội ngũ cán bộ đảng viên trong hệ thống chính trị, nhất là trong Nhà nước, phải có năng lực chuyên môn giỏi, đồng thời phải thực sự là những tấm gương đạo đức trong sáng, hết lòng phụng sự nhân dân “chí công vô tư” như Bác Hồ đã nói. Đó là điều kiện tiên quyết để Đảng luôn giữ vững được lòng tin yêu của nhân dân, từ đó mới dành phiếu bầu các cán bộ thay mặt Đảng vào các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến địa phương [Quốc hội và HĐND các cấp].

Là một tổ chức nằm trong hệ thống chính trị, hơn nữa lại là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng có quyền lực chính trị, nhưng Đảng không có quyền lực Nhà nước, Đảng không thể “nhân danh” Nhà nước để lãnh đạo xã hội. Do đó, không được lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước, giữa “quyền lực” của Đảng và quyền lực Nhà nước. Sự khác nhau giữa “quyền lực” của Đảng và quyền lực Nhà nước trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ sự khác nhau về chức năng của Đảng và chức năng của Nhà nước. Đảng là lực lượng lãnh đạo chính trị đối với Nhà nước và xã hội, còn Nhà nước là bộ máy quản lý xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Do đó, “quyền lực” của Đảng chủ yếu dựa trên uy tín chính trị mang lại, còn quyền lực của Nhà nước chủ yếu dựa trên pháp luật, bộ máy cưỡng chế, quản lý - quản trị xã hội, bộ máy hành chính công quyền. Đây là vấn đề quan trọng cần quán triệt khi xây dựng tổ chức và bộ máy của hệ thống chính trị. Nhận thức đúng chức năng lãnh đạo và chức năng cầm quyền của Đảng, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là cơ sở để xác lập phương thức lãnh đạo và phương thức cần quyền đúng đắn của Đảng và xây dựng tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động phù hợp của hệ thống chính trị. Đồng chí Lê Duẩn đã có những luận điểm rất quan trọng về mối quan hệ này : “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, “Không thể buông lỏng lãnh đạo các cơ quan chính quyền, song cũng không thể bao biện công việc của chính quyền”, “Việc xây dựng Đảng phải gắn với xây dựng chính quyền Nhà nước, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý của nhà nước”, “Đảng không thể nào thực hiện được sự lãnh đạo của mình đối với xã hội mà không thông qua chính quyền nhà nước”. Đồng thời “Chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước”, “chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”, “Không nên cho rằng có sự đối lập giữa việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính quyền nhà nước. Sức mạnh của Đảng cầm quyền và sức chiến đấu của nó biểu hiện chính là ở hiệu lực và sức mạnh của bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng”. Như vậy, đòi hỏi phải xử lý một cách rất khoa học - rất thực tiễn giữa hai vấn đề “Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”, đồng thời “chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của cấp ủy Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước”, “đối lập giữa việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với việc nâng cao vai trò và hiệu lực của chính quyền nhà nước”. Đó là những luận điểm rất quan trọng gợi mở cho việc nhận thức đúng về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị gắn với xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính tri tin gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, để Đảng không rơi vào tình trạng lạm quyền, bao biện làm thay các công việc Nhà nước, trái lại phát huy được vai trò quản lý, hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước, nhưng cũng không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là vấn đề rất hệ trọng cả về lý luận và thực tiễn, đòi hỏi phải đổi mới phương thức lãnh đạo - phương thức cầm quyền của Đảng đồng bộ với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, và đối với hệ thống chính trị nói chung. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị khoa học, phù hợp, tinh gọn hiệu quả.

Ở nước ta, về nguyên tắc, Đảng là lực lượng tiêu biểu, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, khi Đảng “nắm” chính quyền cũng tức là Đảng vừa là người lãnh đạo và đồng thời cũng là cầm quyền. Tuy phương thức thực hiện quyền lãnh đạo và quyền cầm quyền này quan hệ biện chứng mật thiết với nhau, nhưng không thể đồng nhất là một. Điều này được thể hiện ở phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước khác với phương thức Đảng lãnh đạo MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị.

3. Nội dung các phương thức lãnh đạo của Đảng

Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1991 [bổ sung, phát triển năm 2011] đã khảng định : “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Trong Cương lĩnh đã chỉ rõ những nội dung cơ bản các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội là :

1]Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn.

2] Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên,

3] Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị.

4] Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu.

5] Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.

6] Đồng thời khi Đảng cần quyền, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền thì một phương thức lãnh đạo rất quan trọng và cơ bản của Đảng đối với Nhà nước cần được nhấn mạnh là “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước”[9].

Tất cả các phương thức lãnh đạo của Đảng nêu trên đều rất quan trọng và có quan hệ rất biện chứng với nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi Báo cáo này, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị được tập trung vào phương thức sau : Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn, thông qua tổ chức Đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, lãnh đạo bằng Nhà nước - thông qua Nhà nước. Phương thức lãnh đạo này thể hiện tập trung nhất sự hiện thực hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý - Nhân dân làm chủ”. Phương thức lãnh đạo này được xác định đúng sẽ là cơ sở để đối mới và xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị với phương thức cơ bản chung nêu trên, nhưng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và đối với MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội có những khác biệt cơ bản : Đảng lãnh đạo Nhà nước và thông qua Nhà nước để lãnh đạo xã hội chủ yếu bằng thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đất nước của Đảng thành pháp luật, thể chế, cơ chế, chính sách để đưa vào cuộc sống; lãnh đạo thực hiện thông qua hệ thống pháp luật của Nhà nước bằng sự quản lý của Nhà nước. Tức là Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo con đường pháp quyền hóa - cầm quyền. Còn Đảng lãnh đạo MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội theo phương thức cụ thể hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương, định hướng phát triển đất nước của Đảng thành các nhiệm vụ, nội dung hoạt động phù hợp với vị trí, vai trò, chức năng, tính chất của từng tổ chức; thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức đó để lãnh đạo - vận động thực hiện, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức theo nguyên tắc và cơ chế tự chủ, tự nguyện, lãnh đạo các tổ chức hoạt động theo đúng luật pháp của Nhà nước và điều lệ của từng tổ chức.

Như vậy, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị bằng đường lối, chủ trương, định hướng chính sách lớn [thể hiện bằng các nghị quyết] thông qua tổ chức đảng và các đảng viên hoạt động trong hệ thống chính trị sẽ bao gồm “chuỗi các công đoạn” sau:

i]. Đảng [cấp ủy] ban hành nghị quyết chứa đựng các nội dung lãnh đạo;

ii]. Các tổ chức đảng trong các tổ chức Nhà nước lãnh đạo cụ thể hóa, thể chế hóa các nội dung nghị quyết;

iii]. Các tổ chức đảng và các đảng viên trong các tổ chức Nhà nước lãnh đạo thực hiện các nội dung nghị quyết [đã được cụ thể hóa, thể chế hóa] bằng con đường Nhà nước;

iv]. Đảng [cấp ủy] kiểm tra, đánh giá việc thực hiện nghị quyết thông qua cơ chế của Đảng đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức nhà nước, thông qua việc tuân thủ pháp luật của nhà nước và thông qua đánh giá kết quả, hiệu quả thực hiện nghị quyết của Đảng trên thực tế; rút ra những vấn đề cần thay đổi, sửa đổi, bổ sung, hay ban hành mới.

Phương thức lãnh đạo đó trên thực tế là sự quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự “Lãnh đạo đúng” của Đảng, đó là Đảng : “Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng”, “Phải tổ chức thi hành cho đúng”, và “phải tổ chức kiểm soát đúng”. Để có “ba đúng” đó Đảng đều phải dựa vào dân, vì dân.

Phương thức lãnh đạo đó của Đảng phải được thể hiện ở các nguyên tắc cơ bản thống nhất trong toàn Đảng từ Trung ương xuống cơ sở. Tuy nhiên, do mỗi cấp [mỗi lĩnh vực] có vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và nội dung lãnh đạo khác nhau, dó đó phương thức lãnh đạo này cần phải được cụ thể hóa cho phù hợp.

Để nâng cao chất lượng và hiệu quả phương thức lãnh đạo đó của Đảng trong việc xây dựng tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phải thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ sau :

a] - Phải chế định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, trách nhiệm giải trình của tất cả các tổ chức đảng và các đảng viên [nhất là người đứng đầu và các cán bộ chủ chốt] trong mỗi công đoạn thực hiện phương thức lãnh đạo đó, và xây dựng cơ chế đồng bộ giữa các công đoạn của phương thức lãnh đạo;

b] - Phải thể chế hóa, cơ chế hóa, quy trình hóa, quy chuẩn hóa tất cả các “công đoạn” lãnh đạo trên một cách khoa học và phù hợp với thực tiễn, công khai, minh bạch;

c] - Phải nâng cao chất lượng của tất cả các “công đoạn” trên, từ việc ra nghị quyết đến khâu cuối cùng là kiểm tra đánh giá việc thực hiện và kết quả.

d] - Phải xây dựng được các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, xây dựng được đội ngũ đảng viên, nhất là các đảng viên giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị có đủ phẩm chất và năng lực, thực sự là tấm gương về đạo đức để hiện thực hóa có hiệu quả phương thức lãnh đạo đó.

Một vấn đề quan trọng cần được chế định rõ đó là xác định và phân định rõ nội dung, quyền hạn, trách nhiệm của tổ chức đảng [với tư cách là tổ chức lãnh đạo] và các đảng viên, cán bộ chủ chốt, nhất là những người đứng đầu được đảng giao nhiệm vụ trong mỗi cơ quan nhà nước. Đây là cụ thể hóa nguyên tắc của đảng “tập thể lãnh đạo - cá nhân phụ trách” trong mỗi tổ chức đảng và cơ quan nhà nước cụ thể. Các tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị, nhất là trong các cơ quan nhà nước sẽ đồng thời thực hiện hai chức năng : chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng đối với cơ quan nhà nước, và đồng thời với tư cách là những cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước, lãnh đạo tổ chức thực hiện các nội dung lãnh đạo của đảng bằng con đường pháp quyền. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để một mặt không lẫn chức năng lãnh đạo của tổ chức đảng với chức năng quản lý nhà nước trong một cơ quan nhà nước, đồng thời sự lãnh đạo của đảng được “hóa thân” một cách hiệu quả nhất vào sự quản lý của cơ quan nhà nước đặt ra yêu cầu đổi mới tổ chức - bộ máy hệ thống chính trị, nhất là giữa các tổ chức đảng và các cơ quan nhà nước, không có sự trùng lắp, trùng chéo về chức năng, nhiệm vụ.

Thực hiện phương thức lãnh đạo đó gắn với việc xây dựng tổ chức và bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực và hiệu quả đòi hỏi phải :

- Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước, của MTTQ và các tổ chức chính trị xã hội;

- Xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống các cấp ủy đảng, của hệ thống các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước, trong MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, phù hợp với yêu cầu và chức năng khách quan của tổ chức nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội ;

- Đảm bảo sự đồng bộ trong việc thực hiện các khâu trong sự lãnh đạo của Đảng với hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, không để dẫn đến tình trạng chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị trong mỗi hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, và giữa các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị - xã hội với nhau [và do đó dẫn đến chồng chéo, trùng lắp về tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị]. Nghĩa là phải có sự đồng bộ về chức năng, nhiệm vụ, về tổ chức bộ máy, về cán bộ và nhân sự trong hệ thống chính trị ở tất cả các cấp.

Xét theo logic khoa học, khách quan và thực tế, phương thức lãnh đạo của Đảng [hay một cấp ủy cụ thể] được chế định bởi nhiều yếu tố: Trước hết là chức năng lãnh đạo; từ chức năng lãnh đạo xác định nhiệm vụ - nội dung lãnh đạo; từ nhiệm vụ - nội dung lãnh đạo xác định phương thức và cơ chế lãnh đạo phù hợp; tiếp theo là xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy thực hiện sự lãnh đạo theo phương thức đó gắn đồng bộ với hệ thống tổ chức bộ máy triển khai thực hiện trên thực tế. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển dân chủ xã hội, phát triển thể chế kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn…, Đảng vẫn giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, song phương thức lãnh đạo của Đảng nói chung, nhất là phương thức lãnh đạo của Đảng bằng Cương lĩnh, đường lối, định hướng chính sách…thông qua tổ chức đảng và đảng viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là “bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước” đã đòi hỏi phải xây dựng nội dung và cơ chế lãnh đạo mới - phù hợp và hiệu quả hơn.

Phương thức lãnh đạo của Đảng chứa đựng tổng hợp các yếu tố khách quan và chủ quan. Các yếu tố khách quan là: những điều kiện và yêu cầu khách quan đặt ra của quá trình đổi mới đất nước [xây dựng nhà nước pháp quyền, phát triển nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế…] quy định vị trí, vai trò chức năng, nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhất là đối với nhà nước; điều kiện, trình độ, mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các yếu tố chủ quan là: Nhận thức và trình độ lãnh đạo - cầm quyền của Đảng; cấu trúc tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của hệ thống chính trị từ trung ương xuống cơ sở; phương tiện và công cụ được sử dụng trong phương thức lãnh đạo của Đảng. Phương thức lãnh đạo phù hợp và hiệu quả phải đảm bảo sự thống nhất hữu cơ các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan đó.

[còn tiếp]

PGS.TS Trần Quốc Toản
Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương


[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 306.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 255.

[3] Nguyễn Hữu Đổng, Ngô Duy Đức: Nhận thức khái niệm “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền” theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ,

//www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2011/3924/Nhan-thuc-khai-niem-Dang-lanh-dao-Dang-cam-quyen-theo-Tu.aspx

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 222.

[5] Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 323.

[6] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 3, tr. 139.

[7] Xem: Nguyễn Văn Huyên: Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.36-38.

[8] V.I. Lênin: Toàn tập, t. 43, Nxb. Tiến bộ, Mat-xcơ-va, 1979, tr. 75.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, HN, 2011, tr. 144



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 306.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 255.

[3] Nguyễn Hữu Đổng, Ngô Duy Đức: Nhận thức khái niệm “Đảng lãnh đạo”, “Đảng cầm quyền” theo Tư tưởng Hồ Chí Minh ,

//www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2011/3924/Nhan-thuc-khai-niem-Dang-lanh-dao-Dang-cam-quyen-theo-Tu.aspx

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 222.

[5] Hồ Chí Minh: Sđd, t. 10, tr. 323.

[6] Hồ Chí Minh, Sđd, t. 3, tr. 139.

[7] Xem: Nguyễn Văn Huyên: Đảng Cộng sản cầm quyền - Nội dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.36-38.

[8] V.I. Lênin: Toàn tập, t. 43, Nxb. Tiến bộ, Mat-xcơ-va, 1979, tr. 75.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam : Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB CTQG, HN, 2011, tr. 144

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề