Sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai nền kinh tế liên xô như thế nào ?

NGUYỄN VĂN TOÀN [Tổng hợp]

Tinh thần tự cường

Trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, nước Nga lạc hậu hàng chục năm so các nước phát triển khác. Hầu như tất cả ngành công nghiệp chủ yếu của Nga nằm trong tay tư bản nước ngoài và ngay từ năm 1890, tư bản nước ngoài chiếm tới 47% vốn đầu tư ở Nga. Trên thực tế, vào năm 1914, dù là một đất nước chiếm một phần sáu diện tích thế giới nhưng tổng sản lượng công nghiệp của nước Nga chỉ chiếm 4% tổng sản lượng công nghiệp toàn cầu.

Trong bài “Gửi nông dân nghèo” viết năm 1903, lãnh tụ V.I.Lenin đã từng khẳng định: “Phương sách duy nhất để làm cho nhân dân lao động hết cùng khổ là thay đổi, từ dưới lên trên, chế độ hiện nay trên toàn quốc và lập chế độ xã hội chủ nghĩa”. Đặc biệt đối với giai cấp công nhân, Lenin khẳng định: “Đến khi đó, của cải sẽ tăng lên còn rất nhanh chóng hơn nữa, vì công nhân lao động cho bản thân mình, sẽ làm tốt hơn là làm cho bọn tư bản, ngày lao động sẽ ngắn hơn, tình cảnh của công nhân sẽ khá hơn, tất cả đời sống của họ sẽ hoàn toàn thay đổi”.

Sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, nước Nga Xô-viết ra đời, bắt đầu thực thi “Sắc lệnh ruộng đất”. Nông dân đã nhận được miễn phí hơn 150 triệu ha ruộng đất từ giai cấp địa chủ, được xóa tiền nợ. Một vấn đề quan trọng nhằm cải thiện đời sống nhân dân lao động là cần phải nâng cao năng suất lao động. Như V.I.Lenin nhận định: “Công nhân tự nguyện tự giác, liên hợp với nhau, sử dụng 
kỹ thuật hiện đại thì mới có thể tạo ra năng suất lao động cao hơn”.

Joseph Stalin, người kế tục sự nghiệp của V.I.Lenin từng chỉ rõ: “Biến nước Nga từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất thiết bị cần thiết, đưa nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một nước chế tạo được các thiết bị ấy. Đó là điều bảo đảm sự độc lập kinh tế của nước ta và không phụ thuộc vào các nước tư bản chủ nghĩa”. Từ tinh thần đó, Liên Xô quyết tâm trở thành một quốc gia tự cường. 

Trong 13 năm trước Chiến tranh thế giới thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Joseph Stalin, Liên Xô đã xây dựng được 9.000 xí nghiệp lớn, trang bị kỹ thuật hiện đại, nhiều ngành công nghiệp mới quan trọng đã ra đời. So năm 1913, đến năm 1940, sản lượng công nghiệp của Liên Xô tăng hơn 12 lần; tỷ trọng công nghiệp đã chiếm ưu thế trong nền kinh tế quốc dân [hơn ba phần tư tổng sản lượng]; sản lượng của ngành chế tạo máy tăng 35 lần; sản lượng điện tăng 24 lần…

Nếu năm 1913, tổng sản lượng công nghiệp của nước Nga đứng hàng thứ năm trên thế giới [sau Mỹ, Anh, Pháp và Đức] thì đến năm 1937, sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã vượt lên đứng hàng thứ hai trên thế giới [chỉ sau Mỹ]. Tỷ trọng công nghiệp của Liên Xô trong sản lượng công nghiệp thế giới đã lên đến 14%. Trong lịch sử, để trở thành một nước công nghiệp, nước Anh cần 200 năm, nước Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm, trong khi Liên Xô chỉ cần 18 năm để hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận. Thế và lực của Liên Xô tăng lên nhanh chóng trên trường quốc tế.

Cũng từ nền tảng thành tựu nói trên, Liên Xô đã đứng vững trong cuộc chiến tranh Vệ quốc [1941-1944]. Sau chiến tranh, dưới sự chỉ đạo của quyết định “Về những biện pháp cấp bách khôi phục kinh tế ở các vùng được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của phát-xít” của Joseph Stalin, đến cuối năm 1945, Liên Xô đã khôi phục được 7.500 nhà máy và xí nghiệp, hàng nghìn nông trường quốc doanh và hợp tác xã.

Thời kỳ 1945 - 1953 là giai đoạn mà niềm phấn khởi, tự hào của người dân Liên Xô dâng cao khi nền kinh tế đã được hồi phục và phát triển nhanh chóng. Thu nhập quốc dân từ năm 1940 đến năm 1950 tăng 64%. Năm 1954, Liên Xô là quốc gia đầu tiên có nhà máy điện nguyên tử. Hai sự kiện này đặt dấu chấm hết cho sự độc quyền về vũ khí hạt nhân của Mỹ. Thủ tướng Anh Winston Churchill [1874-1965] cũng phải đành thừa nhận: “Stalin đã tiếp nhận một nước Nga đi giày cỏ và để lại một nước Nga với vũ khí hạt nhân”.

Trở thành siêu cường

Sau khi Joseph Stalin mất [năm 1953], Liên Xô tiếp tục đi theo con đường tự cường. Đặc biệt, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev [1906 -1982] đã tiến hành cải cách kinh tế và áp dụng những cải cách này trong kế hoạch 5 năm lần thứ VIII [1965 - 1969]. Kết quả đạt được của kế hoạch 5 năm lần thứ VIII rất khả quan khi sản lượng công nghiệp tăng 50%, 1.900 xí nghiệp công nghiệp mới được xây dựng; chưa bao giờ nông nghiệp được cung cấp nhiều máy móc như giai đoạn này. Các kế hoạch 5 năm giai đoạn 1970 - 1985, Liên Xô tiếp tục thu được nhiều thành tựu quan trọng. Đặc biệt, đến năm 1972, tổng sản lượng công nghiệp của Liên Xô đã tăng 321 lần so năm 1922 [năm Liên Xô thành lập], thu nhập quốc dân cũng tăng tới 112 lần.

Trong thập niên 70 thế kỷ 20, Liên Xô được lợi rất lớn từ nguồn thu do xuất khẩu dầu mỏ đem lại và cũng là một trong nguồn lực chính giúp Liên Xô nâng cao phúc lợi của người dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng, mở rộng ảnh hưởng quốc tế. Cụ thể, năm 1975, Liên Xô sản xuất được 490 triệu tấn dầu thô và vượt Mỹ - vốn là một trong những nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới thời đó. Cũng trong giai đoạn này, Liên Xô có nền khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ với nhiều ngành khoa học đứng hàng đầu thế giới, điển hình như khoa học vũ trụ. Công nghệ sản xuất ở Liên Xô cũng được chú trọng đổi mới và phát triển. Chính vì thế, Liên Xô phát triển khá ổn định, đổi mới nhanh chóng, thực hiện cơ giới hóa và điện khí hóa; ngành chế tạo máy luôn giữ vai trò chủ đạo và đứng hàng đầu thế giới.

Về mặt quốc phòng, đến giữa những năm 70 thế kỷ 20, Liên Xô đã đạt thế cân bằng về chiến lược trong lĩnh vực vũ khí với phương Tây. Chi phí quốc phòng của Liên Xô năm 1974 đạt con số 105 tỷ USD, vượt Mỹ [85 tỷ USD]. Về lực lượng quân sự, khối Warsaw [khối Hiệp ước Warsaw, Liên Xô tham gia khối này] đã vượt lên khối NATO [Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương].

Vào đầu những năm 80 thế kỷ 20, cứ năm người lao động ở Liên Xô thì có một người tốt nghiệp đại học hoặc các trường kỹ thuật. Nhịp độ phát triển của ngành đại học và trung học của Liên Xô đã vượt xa các nước tư bản. Số sinh viên của Liên Xô lớn gấp hai lần số sinh viên của 15 nước châu Âu cộng lại. Mạng lưới thư viện và các hoạt động thông tin tư liệu không ngừng được mở rộng để phục vụ hệ thống giáo dục quốc dân và nâng cao dân trí. Năm 1983, Liên Xô đã có 134 nghìn thư viện công cộng với hơn hai tỷ đầu sách.

Về đối ngoại, Đảng và Nhà nước Xô-viết đã thực hiện chính sách nhằm mục tiêu chủ yếu và phương hướng cơ bản gồm: Bảo đảm các điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; loại trừ nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình và an ninh chung; mở rộng việc hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa; phát triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các nước tư bản chủ nghĩa trên cơ sở chung sống hòa bình, hợp tác thiết thực, cùng có lợi...

Nhà kinh tế học Mỹ Wassily Leontief, người đoạt Giải Nobel Kinh tế năm 1973, từng ca ngợi nền kinh tế kế hoạch của Liên Xô do đã đạt được bước đại nhảy vọt về công nghiệp trong những năm 30 thế kỷ 20. Leontief nhận định, vì có nền kinh tế kế hoạch mà Liên Xô đã nhanh chóng phục hồi sau Chiến tranh thế giới thứ hai [1939 - 1945], cho rằng nhờ nền kinh tế kế hoạch đã giúp Liên Xô đạt được tốc độ tăng trưởng tương đương Mỹ, thậm chí còn vượt cả Tây Âu vào thập niên 70 và đầu thập niên 80 thế kỷ 20.

Hãy nêu những thành tựu mà các nước Đông Âu đã đạt được trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Chi tiết Chuyên mục: Bài 1: Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX

- Tới đầu những năm 70 của thế kỉ XX, các nước Đông Âu đã trở thành những nước công - nông nghiệp. Bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã thay đổi căn bản và sâu sắc.

- Trước chiến tranh, An-ba-ni là nước nghèo nhất châu Âu. Tới năm 1970, nền công nghiệp đã được xây dựng, cả nước đã được điện khí hoá.

- Năm 1975, tổng sản phẩm công nghiệp của Bun-ga-ri tăng 55 lần so với năm 1939.

- Vốn là nước đã có những cơ sở công nghiệp, tới lúc này Tiệp Khắc được xếp vào hàng các nước công nghiệp phát triển, chiếm 1,7% sản lượng công nghiệp thế giới.

- Mặc dù có nhiều hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, Cộng hoà Dân chủ Đức đã đạt được những thành tích đáng kể, sản xuất tăng gấp 5 lần, thu nhập quốc dân tăng 4 lần so với năm 1949.

Xem tiếp...

LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI, Thuận lợi lớn của Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai là, Sau chiến tranh the giới thứ 2 Liên Xô là nước, Mục tiêu của Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai là, Chính sách đối ngoại của Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai là, Tình hình Liên Xô sau chiến tranh the giới thứ 2, Bối cảnh lịch sử của Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai có điểm khác biệt nào với Tây Âu, Sau chiến tranh thế giới thứ 2 Liên Xô là nước như thế nào, Hoàn cảnh của Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2  A - CHUẨN KIẾN THỨC KĨ NĂNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH
- Biết được tình hình Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm l945 đến năm 1991 qua hai giai đoạn : Giai đoạn từ năm 1945 đến giữa những năm 70 thế kỉ XX :
- Liên Xô :
- Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh [1945 - 1950]
- Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội
- Các nước Đông Âu :
- Thành lập Nhà nước dân chủ nhân dân
- Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và những thành tựu chính.
+ Giai đoạn từ giữa những năm 70 [lên đầu những năm 90 của thế Kỉ XX : giải đoạn khủng hoảng dẫn đến sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
- Biết đánh giá những thành tựu đạt được và một số sai lầm, hạn chế của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu.
B - HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN CHUẨN KIẾN THỨC, KĨ NĂNG l. Liên Xô Biết được tình hình Liên xô và kết quả công cuộc, khôi phục kinh tế sau chiến tranh:
- Đất nước Xô viết bị chiến tranh tàn phá hết sức nặng nề : hơn 27 triệu người chết, l710 thành phố, hơn 70000 làng mạc bị phá huỷ,... Nhân dân Liên Xô thực hiện và hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ tư [1946 - l950] trước thời hạn.
- Công nghiệp tăng  73%, một số ngành nông nghiệp vượt mức trước chiến tranh. Năm l949, Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử. Trình bày được những thành tựu chủ yếu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô từ năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX:
- Liên Xô tiếp tục thực hiện các kế hoạch dài hạn với các phương hướng chính là : phát triển kinh tế với ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đẩy mạnh tiến bộ khoa học - kĩ thuật, tăng cường sức mạnh quốc phòng.
- Kết quả : Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu to lớn : Sản xuất công nghiệp bình quân hằng năng tăng 9,6%, là cường quốc công nghiệp đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Mĩ ; là nước mở đầu kỉ nguyên chinh phục vũ trụ của con người - năm 1957, phóng thành công vệ tinh nhân tạo, năm l96l phóng tàu ''Phương Đông'' đưa con người [I.Gagarin] lần đầu tiên bay vòng quanh Trái Đất.
- Về đối ngoại : Liên Xô chủ trương duy trì hoà bình thế giới, quan hệ hữu nghị với các nước và ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc.
- Quan sát hình 1. Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Liên Xô và nhận xét về thành tựu khoa học - kĩ thuật của nước này. Biết được tình hình các nước dân chủ nhân dân Đông Âu sau Chiến tranh thế giới thứ hai :
- Trong thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân ở hầu hết các nước Đông Âu tiến hành cuộc đấu tranh chống phát xít và đã giành được thắng lợi : giải phóng đất nước, thành lập các nhà nước dân chủ nhân dân [Ba Lan tháng 7 - 1944, Tiệp Khắc 5 - l945,...].
- Riêng ở nước Đức bị chia cắt, với sự thành lập nhà nước Cộng hoà Liên bang Đức [9-l949] ở phía Tây lãnh thổ và nhà nước Cộng hoà dân chủ Đức [l0 - 1949] ở phía Đông.
- Từ năm 1945 đến năm l949, các nước Đông Âu hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ : xây dựng bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân, tiến hành cải cách ruộng đất, thực hiện các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân,...
- Quan sát hình 2 - SGK, xác định tên các nước dân chủ nhân dân Đông Âu trên lược đồ. Trình bày được những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu :
- Sau 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội [l950 - l970], với sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, các nước Đông Âu đã giành được những thắng lợi to lớn :
+ Xoá bỏ sự bóc lột của giai cấp tư sản.
+ Đưa nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể thông qua hình thức hợp tác xã.
+ Công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.
- Nhờ đó các nước Đông Âu đã trở thành các nước công – nông nghiệp, bộ mặt kinh tế - xã hội của đất nước đã thay đổi căn bản và sâu sắc. Biết được nguyên nhân, quá trình khủng hoảng và tan rã của Liên bang Xô viết :
- Từ sau cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, nhất là từ đầu những năm 80, nền kinh tế - xã hội của Liên Xô ngày càng rơi vào tình trạng trì trệ, không ổn định và lâm dần vào khủng hoảng. Đó là, sản xuất công nghiệp và nông nghiệp không tăng, đời sống nhân dân khó khăn, lương thực và hàng hoá tiêu dùng thiết yếu ngày càng khan hiếm, tệ nạn quan liêu, tham nhũng trầm trọng...
- Tháng 3 - 1985, sau khi lên nắm quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô, Goóc-ba-chốp đề ra đường lối cải tổ nhằm đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, khắc phục những sai lầm và xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đúng ý nghĩa và bản chất tốt đẹp của nó.
- Do thiếu chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết và thiếu một đường lối chiến lược đúng đắn, công cuộc cải tổ nhanh chóng lâm vào tình trạng bị động, khó khăn và bế tắc. Đất nước càng lún sâu vào khủng hoảng và rối loạn : bãi công, nhiều nước cộng hoà đòi li khai, tệ nạn xã hội gia tăng,...
- Sau cuộc đảo chính ngày 19 - 8 - l991 không thành, Đảng Cộng sản và Nhà nước Liên bang hầu như tê liệt. Ngày 2l - l2 - 1991, 11 nước cộng hoà kí hiệp định về giải tán Liên bang, thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập [viết tắt là SNG]. Tối 25 - l2 - l99l, Goóc-ba-chốp tuyên bố từ chức Tổng thống, lá cờ Liên bang Xô viết trên nóc điện Crem-li bị hạ xuống, đánh dấu sự chấm dứt của chế độ xã hội chủ nghla ở Liên bang Xô viết sau 74 năm tồn tại.
- Quan sát hình 3. Cuộc biểu tình đòi li khai và độc lập ở Lít-va - SGK và nhận xét về tình hình ở Liên Xô từ giữa những năm 70 đến đầu những năm 90 của thế kỉ XX.
- Quan sát Lược đồ các nước SNG - SGK và xác định tên các nước SNG trên lược đồ. Biết được sự khủng hoảng và tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu:
- Từ cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỉ XX, các nước Đông Âu lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế và chính trị ngày càng gay gắt.
- Tới cuối năng l988, cuộc khủng hoảng lên tới đỉnh cao, khởi đầu từ Ba Lan sau đó lan sang các nước khác. Các cuộc mít tinh, biểu tình diễn ra dồn dập, mà mũi nhọn đấu tranh là nhằm vào các đảng cộng sản cầm quyền...
- Qua các cuộc trúng tuyển cử, các lực lượng đối lập thắng cử, giành được chính quyền nhà nước còn các đảng cộng sản đều thất bại.
- Chính quyền mới ở các nước Đông Âu đều tuyên bố từ bỏ chủ nghĩa xã hội, thực hiện đa nguyên về chính trị và chuyển nền kinh tế theo cơ chế thị trường với nhiều thành phần sở hữu. Tên nước thay đổi, nói chung đều gọi là các nước cộng hoà.
- Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô chấm dứt sự tồn tại của hệ thống xã hội chủ nghĩa [ngày 28 - 6 - l99l, SEV ngừng hoạt động và ngày l - 7 - l99l, Tổ chức hiệp ước Vácsava giải tán]. Đây là những tổn thất hết sức nặng nề đối với phong trào cách mạng thế giới và các lực lượng dân chủ, tiến bộ ở các nước.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh biết đánh giá một số thành tựu đã đạt được và một số sai lầm, hạn chế của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
 

Video liên quan

Chủ Đề