Theo g.w.f.hêghen, giữa tinh thần và tự nhiên có quan hệ như thế nào?
Ngày đăng:
22/02/2022
Trả lời:
0
Lượt xem:
55
Quan điểm cơ bản của Hêghen về lôgic học
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------------- LÊ THANH TÂM QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÊGHEN VỀ LÔGÍC HỌC Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học Mã số: 60 22 80 Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn HÀ NỘI - 2010 MỤC LỤC MỤC LỤC ....................................................................................................... 1 MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3 1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 6 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 10 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 10 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 10 6. Đóng góp của luận văn........................................................................... 11 7. Ý nghĩa của luận văn ............................................................................. 11 8. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 11 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TRIẾT HỌC HÊGHEN VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TIỂU LÔGÍC .. ..12 1.1. Điều kiện hình thành và các tiền đề lý luận của triết học Hêghen . 12 1.1.1. Bối cảnh văn hoá - xã hội Tây Âu và nước Đức thời Cận đại và sự tác động của nó đến triết học ................................................................... 12 1.1.2. Tiền đề lý luận của lôgíc học Hêghen...18 1.2. Cuộc đời và sự nghiệp triết học của Hêghen .................................... 29 1.2.1. Sơ lược về tiểu sử và tác phẩm chủ yếu ......................................... 29 1.2.2. Hệ thống triết học Hêghen.31 1.2.3. Vị trí của lôgíc học trong hệ thống Hêghen ................................... 35 1.3. Cấu trúc và nội dung cơ bản của Tiểu lôgíc ................................. 41 1.3.1. Sự vận động của tư duy trong Tiểu Lôgíc: từ tồn tại đến bản chất và khái niệm ............................................................................................. 41 1.3.2. Những quy luật cơ bản của tư duy biện chứng .............................. 57 CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA LÔGÍC HỌC HÊGHEN ......................................................................................................... 67 1 2.1. Đồng nhất lôgíc học với hệ thống khoa học và siêu hình học ......... 67 1.2.1. Tư duy với tính cách là đối tượng của triết học lôgíc: khái niệm và kết cấu (loại hình) .................................................................................... 67 2.1.2. Mối tương quan lôgíc học và siêu hình học ................................ 72 2.2. Lôgíc học và con đường tìm kiếm chân lý đi đến tự do ................... 77 2.2.1. Quan niệm về chân lý trong Lôgíc học Hêghen............................. 77 2.2.2. Lôgíc học với sự phát triển tinh thần tự do.................................... 87 2.3. Lôgíc học Hêghen dưới góc nhìn Mácxit .......................................... 93 2.3.1. Tính chất duy tâm tuyệt đối của Lôgíc học (phép biện chứng) Hêghen ..................................................................................................... 93 2.3.2. Đánh giá của một số triết gia Mácxít về lôgíc học của Hêghen 96 KẾT LUẬN ................................................................................................... 107 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 110 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Lôgíc học là một môn khoa học xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, đặc biệt là ở Phương Tây, từ thế kỷ thứ III TCN với lôgíc học hình thức của Arixtốt, và cho đến ngày nay nó vẫn không ngừng được nghiên cứu, phát triển. Với mục đích tìm ra hình thức và quy luật vận động của tư duy, như là khoa học về các hình thức và các quy luật của tư duy đúng đắn dẫn đến chân lý [64, 12]1, lôgíc học đã góp phần lý giải rất nhiều bí ẩn thế giới xung quanh con người. Vậy tư duy con người là gì và nó vận động theo quy luật nào để đạt được chân lý, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của con người. Để giải quyết vấn đề này, trong lịch sử triết học G.V.P. Hêghen là người có công lớn nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc những vấn đề lôgíc học. Ông đã đưa tư tưởng lôgíc học đến đỉnh cao khoa học, coi chính nó là học thuyết về sự phát triển toàn diện của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới tuân theo các quy luật của phép biện chứng. Sự phát triển đó bắt nguồn từ mâu thuẫn nội tại, đi lên theo các thang bậc lôgíc, có sự chuyển hoá về chất làm cho cái mới ra đời phủ định sự tồn tại hiện có song vẫn giữ lại những gì tích cực từ quá khứ. Hêghen xây dựng và sử dụng lôgíc biện chứng như là công cụ để con người nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, tìm đến chân lý, và khi tư duy, hành động thực tiễn của con người được giải phóng khỏi những tín điều siêu hình, con người sẽ có tự do. Không thể có một thực tiễn tự do nếu không có tư duy tự do cũng như không có một tư duy tự do nào lại không mang lại hiệu quả thực tiễn. Như vậy, tư duy vươn xa đến đâu, tự do của con người cũng vươn xa đến đấy. 1 Từ đây và tiếp theo số thứ nhất và thứ hai trong ngoặc vuông lần lượt biểu thị số thứ tự của tài liệu trong danh mục, số trang của tài liệu. Như trên là tài liệu số 64, trang 12. 3 Hêghen đã đưa ra một hệ thống quan điểm đồ sộ và toàn diện về lôgíc học, qua đó đưa phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực của toàn bộ hệ vấn đề triết học Hêghen. Phép biện chứng được ông lý giải là phương pháp đúng đắn đề nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư duy biện chứng được ông nghiên cứu một cách đầy đủ có căn cứ vững chắc nhất, là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác. Lôgíc học biện chứng của Hêghen là nền tảng phương pháp luận quan trọng để sau này Mác xây dựng nên học thuyết của mình. Chính vì vậy, với những người nghiên cứu triết học trong giai đoạn hiện nay, muốn phân tích, hiểu sâu sắc về chủ nghĩa Mác đồng thời bảo vệ chủ nghĩa Mác trước sự tấn công, xuyên tạc của kẻ thù đòi hỏi chúng ta cần phải quay trở lại với những tư tưởng lôgíc học của Hêghen, như Lênin đã từng nhận xét: Không thể hoàn toàn hiểu được Tư bản của Mác và đặc biệt là chương I của sách đó, nếu chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu toàn bộ lôgíc của Hêghen [36, 190]. Mặt khác, từ trước tới này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến những vấn đề mà Hêghen đã đưa ra, điều khá đặc biệt là những người nghiên cứu về ông bao gồm cả những nhà duy tâm và duy vật, người theo chủ nghĩa duy lý và phi duy lý như trong giai đoạn hiện nay hiện nay là cả những trào lưu triết học hiện đại như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa nhân cách triết học, phân tích thần học biện chứng v.v...Vậy thì điều gì ở trong học thuyết Hêghen đã và đang có sức cuốn hút các nhà tư tưởng đến như vậy? Trong một thời gian dài, chúng ta luôn có thái độ phê phán kịch liệt phần chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, tiêu biểu là không khí chống Hêghen từ nửa sau thế kỷ XX ở Châu Âu và Châu Mỹ mà chưa đánh giá hết phần giá trị trong triết học của ông đó là lôgíc biện chứng. Đến nay, trước những biến đổi của hiện thực, lôgíc học lại trở thành trung tâm của việc nghiên cứu về 4 Hêghen. Trong các cuộc thảo luận triết học đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ và tư duy ta nhận ra rằng cách đặt vấn đề của Hêghen không phải không hợp lý: những phạm trù trong tư duy và lời nói của ta luôn tuân theo một tính lôgíc nội tại, không phụ thuộc vào các yếu tố văn hóa và lịch sử chăng? Vấn đề lôgíc học tưởng như đã cũ nay vẫn còn tính thời sự. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với người nghiên cứu triết học là cần phải nghiên cứu thật kỹ lôgíc biện chứng của Hêghen, chắt lọc những gì tinh tuý nhất để minh chứng và tiếp tục phát triển thêm nữa những đóng góp của Hêghen cho lịch sử tư tưởng. Trong triết học Hêghen, phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận thức và là hình thức cao nhất của lôgíc học, của tư duy lôgíc. Đồng thời nó cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu của sự tiến bộ, của sự hợp quy luật. Thực tiễn phát triển của nhận thức khoa học và của xã hội hiện đại ngày càng chứng minh vai trò của phép biện chứng. Trong sự phát triển của mình, khoa học tự nhiên hiện đại gặp phải không ít các vấn đề biện chứng của chính sự phát triển. Càng đi sâu nghiên cứu mọi cấp độ cấu trúc vật chất, từ vi mô đến vĩ mô thì con người càng nhận ra rằng giới tự nhiên tiến hoá không ngừng tuân theo quy luật của nó. Ta có thể lấy ví dụ như sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của khoa học kỹ thuật như công nghệ sinh học những năm gần đây đánh dấu bước ngoặt mới của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật trong cấu trúc và trong sự phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật nhất về mặt này chính là ở chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh hơn với tư tưởng về sự phát triển và sự tự phát triển. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc lộ những mâu thuẫn của sự tiến bộ. Trước đây chúng ta cho rằng khoa học kỹ thuật và công nghệ là công cụ để con người thống trị giới tự nhiên. Nhưng trên thực tế nó lại có tác động ngược lại, sự thống trị đó không chỉ đem lại 5 những cái hay, những điều tốt mà còn gây nên cả những tổn thất không nhỏ cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi con người không kiểm soát được nó và giới tự nhiên cũng đang tác động gây hại ngược trở lại đối với con người. Như vậy, việc áp dụng hợp lý các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhằm bảo vệ giới tự nhiên, phát triển bản thân con người, thúc đẩy sự phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo chỉ có thể thực hiện được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng. Nguyên tắc phát triển thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học. Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử nên Hêghen đã có những kết luận mâu thuẫn và không nhất quán, trái với các nguyên tắc xuất phát của mình, và do vậy lôgíc học Hêghen vẫn còn những hạn chế, song không vì đó mà nó mất đi ý nghĩa tiến bộ với các nguyên tắc biện chứng xuất phát là phương pháp khoa học để nhận thức giúp con người đạt tới chân lý và từ đó có tự do - một tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo nhằm giải phóng con người, đạt tới công bằng xã hội. Với ý nghĩa thiết thực trên những người nghiên cứu bắt buộc phải quay trở lại với lôgíc học của Hêghen. Chính yêu cầu lý luận và thực tiễn cần nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn nữa về lôgíc học của Hêghen để qua đó thấy được những giá trị về con đường tìm kiếm chân lý để đi đến tự do thông qua phương pháp biện chứng và nhân tác phẩm đầu tiên của Hêghen - Tiểu lôgíc - được xuất bản (2008) bằng tiếng Việt, cung cấp thêm những tư liệu gốc giúp nghiên cứu triết học của ông mà tôi đã quyết định chọn: Quan điểm cơ bản của Hêghen về lôgíc học làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Vấn đề lôgíc học của Hêghen được đề cập đến trong rất nhiều công trình, nhưng chưa có một tác phẩm nào của các tác giả trong nước hay nước ngoài đã được dịch sang tiếng Việt trình bày một cách hệ thống lôgíc học của Hêghen. 6 Gần với đề tài này có một số công trình như sau: * Các tác giả Việt Nam Phần giới thiệu và chú giải của Bùi Văn Nam Sơn trong cuốn sách Bách khoa thư các khoa học triết học I, Khoa học lôgíc của G. W. F. Hêghen, do chính ông dịch [14]. Trong công trình này Bùi Văn Nam Sơn chủ yếu tập trung diễn giải một cách chi tiết về các vấn đề trọng tâm và khó hiểu trong sách của Hêghen. Qua đó tác giả đưa ra những quan điểm đánh giá khá sâu sắc đối với từng nội dung của các học thuyết về tồn tại, về bản chất và về khái niệm. Tuy nhiên, chưa thể gọi phần viết của dịch giả đi kèm với bản dịch là một công trình nghiên cứu độc lập về lôgíc học của Hêghen. Cuốn sách Vấn đề tư duy trong triết học Hêghen của Nguyễn Trọng Chuẩn và Đỗ Minh Hợp [5] là tài liệu tham khảo hết sức quý báu cho học viên thực hiện luận văn này. Các tác giả cuốn sách theo lập trường Mácxít đã phân tích sâu sắc cách thức Hêghen đã đặt ra và giải quyết vấn đề tư duy, giúp người đọc phân biệt rõ các thuật ngữ ý niệm lôgíc, tư duy và tinh thần tuyệt đối trong học thuyết Hêghen, từ đó cũng chỉ ra những đóng góp của Hêghen trong việc phát triển cách hiểu về tư duy trong lịch sử triết học. Bài báo V.I. Lênin bàn về lôgíc học của Hêghen của Nguyễn Anh Tuấn [60], và bài giới thiệu cùng tác giả này về Bút ký triết học (trong cuốn sách Giới thiệu tác phẩm kinh điển triết học Mác Lênin [33], phần nào đã giúp giảm bớt khó khăn khi đọc Hêghen thông qua Lênin trong tác phẩm Bút ký triết học. Các bài đó đều đã phân tích sâu đánh giá của Lênin về lôgíc học Hêghen, phổ thông hoá nhận thức lôgíc học dưới góc nhìn duy vật và nêu bật vai trò của nó đối với việc xây dựng học thuyết Mácxít về tư duy. Không thể không kể đến cuốn giáo trình Lịch sử triết học cổ điển Đức do tập thể các giảng viên khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà nội biên soạn và nghiệm thu năm 2010 [12]. Đây là một cuốn 7 giáo trình mang tính nghiên cứu đầy đủ nhất cho đến nay ở Việt Nam về tất cả các nhà triết học Cổ điển Đức và học thuyết của họ. Đáng chú ý là chương 6 (do Nguyễn Quang Hưng biên soạn) đã dành hẳn một tiết viết về hệ thống lôgíc của Hêghen, giúp học viên hình dung rõ ràng hơn về các lớp của lôgíc học Hêghen. Luận văn đã đặc biệt sử dụng được những đoạn trích tác phẩm Khoa học lôgíc (Đại lôgíc) của Hêghen vốn chưa được dịch ra tiếng Việt. Cuối cùng phải kể đến cuốn sách Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên [68]. Giáo trình đã giới thiệu về Hêghen với những tư tưởng của ông trên các mặt, ở các tác phẩm như Hiện tượng học tinh thần, quan điểm của ông về lịch sử triết học, lôgíc học, triết học tự nhiên, thẩm mỹ học. Chính vì trình bày đa dạng nên giáo trình chưa đi sâu được nội dung cơ bản về lôgíc học của Hêghen. * Các tác giả nước ngoài Trong Bút kí triết học [36], Lênin đã đưa ra những nhận xét, đánh giá của mình sau khi đọc toàn bộ cuốn Tiểu lôgíc và Đại lôgíc của Hêghen. Tác phẩm này của Lênin có nhiều điểm mới bên cạnh việc dạy ta cách đọc Hêghen một cách duy vật, còn chỉ rõ những đóng góp, hạn chế của Hêghen trong lôgíc học, qua đó Lênin nêu cách hiểu của mình về lôgíc học và nhiều vấn đề của nó. Đã có một thời gian chưa xa, khi các tác phẩm của Hêghen chưa được dịch sang tiếng Việt, những người nghiên cứu triết học ở Việt Nam đều đã từng gián tiếp trích dẫn Hêghen qua Bút ký triết học của Lênin. Tuy nhiên những gì được Lênin ghi chép lại từ Hêghen, hay những đánh giá, nhận xét của ông liên quan đến lôgíc học thường là rất khó hiểu đối với người đọc. Cuốn sách Lịch sử phép biện chứng tập 3 - Phép biện chứng cổ điển Đức của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô phát hành [66] đã cung cấp một bức tranh chi tiết về phép biện chứng trong lịch sử nhận thức nhân loại, trong đó có tư tưởng của Hêghen về phép biện chứng. 8 E.V. Ilencôv là tác giả đã dành sự quan tâm đặc biệt và có công lớn trong việc triển khai cách hiểu của Hêghen về lôgíc học. Trong cuốn Lôgic học biện chứng [30] ông đã trình bày hệ vấn đề lôgíc biện chứng, khảo sát lịch sử phát triển các quan niệm về đối tượng của lôgíc học lôgíc trong suốt tiến trình tư tưởng nhân loại thông qua những nhà triết học tiêu biểu, trong đó phần dung lượng đáng kể được dành cho nghiên cứu vấn đề đối tượng của lôgíc học ở Hêghen - vấn đề tư duy, như là cơ sở để tiếp cận các vấn đề khác của lôgíc học nói chung và ở Hêghen nói riêng. Theo Ilencôv: chính trên con đường phát triển của lôgíc học nổi lên vấn đề bản chất của tư duy con người [30, 324 - 325]. Tác giả đã đưa ra những nhận định chung, có tính gợi mở vấn đề nhưng vô cùng sâu sắc về bản chất, nguồn gốc, sự vận động và phát triển của tư duy trong đời sống người trên cơ sở tiếp thu có phê phán quan niệm của Hêghen về tư duy, trên cơ sở nghiên cứu, ứng dụng Lôgíc học viết hoa - Tư bản của C. Mác, và do đó, đã đề xuất những quan niệm mang tính cách mạng về tư duy. Về bản chất Cái tư tưởng trực tiếp tồn tại chỉ như hình thức (phương thức, hình tượng) hoạt động của con người xã hội () hướng lên thế giới bên ngoài [30, 330] nhưng về mặt tồn tại trong trực quan nó thể hiện chính như hình thức của các sự vật được tạo nên bởi con người () như hình thức của ý chí hướng đích bị tha hoá vào chất liệu bên ngoài [30, 329]. Trong cuốn sách của Ilencôv còn có các đoạn phân tích một cách sâu sắc và đầy phê phán quan điểm của Hêghen về nội dung khách quan của tư duy, được coi là nền tảng của chủ nghĩa duy tâm thông minh của Hêghen, trong đó lôgíc học phải giải quyết sâu sắc và nghiêm túc hơn vấn đề khái niệm và tư duy trong khái niệm, từ đó ông nêu những kết luận khoa học về lôgíc học, chỉ ra những đóng góp của Hêghen trong dòng chảy lôgíc biện chứng. 9 Như vậy, từ trước đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống nội dung lôgíc học của Hêghen và trùng với luận văn cả về tên gọi và tính chất khoa học. Và đó cũng là thêm một lý do nữa để học viên chọn đề tài nghiên cứu này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Luận văn phân tích những nội dung cơ bản của lôgíc học Hêghen * Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ cơ bản sau: - Trình bày những điều kiện và tiền đề lý luận cho sự hình thành lôgíc học Hêghen. - Phân tích được nội dung lôgíc học Hêghen thể hiện qua tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học - Khoa học lôgíc (hay còn gọi là Tiểu Lôgíc). - Phân tích được một số vấn đề triết học cơ bản của lôgíc học Hêghen. - Chỉ ra được đánh giá của một số triết gia Mácxít về lôgíc học của Hêghen. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Lôgíc học Hêghen * Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn sự khảo sát ở giai đoạn lịch sử triết học Cổ điển Đức và chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung lôgíc học thể hiện trong tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học I - Khoa học lôgíc của Hêghen (hay còn gọi là tiểu Lôgíc). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về tiến trình lịch sử tư tưởng, về tư duy lôgíc và nhận thức luận. 10 * Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bao gồm phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống nhất lôgíc - lịch sử, phương pháp so sánh, tổng hợp và các phương pháp khác. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn lần đầu tiên đã phân tích khá đầy đủ những nội dung lôgíc học của Hêghen trong tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học - Khoa học lôgíc, những đóng góp to lớn của Hêghen trong việc xây dựng lôgíc học như một hệ thống khoa học, xác lập tiêu chuẩn của chân lý, con đường đi tới tự do và quan trọng hơn cả là phương pháp tư duy biện chứng mà sau này Mác kế thừa xây dựng học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân. 7. Ý nghĩa của luận văn * Ý nghĩa lý luận: Luận văn cung cấp thêm một cơ sở khoa học cho việc tìm hiểu về lôgíc học của Hêghen. * Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo, giảng dạy, nghiên cứu những nội dung có liên quan đến vấn đề lôgíc học và phép biện chứng. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 6 tiết. 11 CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TRIẾT HỌC HÊGHEN VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TIỂU LÔGÍC 1.1. Điều kiện hình thành và các tiền đề lý luận của triết học Hêghen 1.1.1. Bối cảnh văn hoá - xã hội Tây Âu và nước Đức thời Cận đại và sự tác động của nó đến triết học Đặc điểm quan trọng nhất của văn hoá châu Âu cận đại chính là ở chủ nghĩa duy lý. Đến thời kỳ này các nhà tư tưởng rất đề cao lý tính mà trước hết là ở niềm tin vào khả năng vô hạn của khoa học. Cơ sở cho quan niệm này là sự tin tưởng vào tính hợp lý của mọi cái thực tồn trong thế giới, bởi nó có những nguyên tắc chung bất biến nằm trong bản chất của lý tính, lý tính thiếu nguyên tắc thì không còn là lý tính nữa. Sự tin tưởng vào tính hợp lý của thế giới đã mở ra con đường luận chứng cho khoa học về mặt phương pháp luận. Thời kỳ này, khoa học đã có những bước tiến to lớn, nhưng vấn đề ở đây là làm thế nào xác định được tính đúng đắn của tri thức, vì lý tính được giả định là công cụ nhận thức chủ yếu về hiện thực, xét về bản chất là hợp lý, cho nên tính đúng đắn của tri thức được xác định ở trong lý tính Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại. Chủ nghĩa duy lý trong văn hoá Tây Âu đã lý giải sự vận động, phát triển của xã hội trên cơ sở tác động của tư tưởng, của niềm tin con người. Văn hoá Tây Âu Cận đại còn một nét đặc thù nữa là quan niệm về chính văn hoá, theo đó, văn hoá là giới tự nhiên thứ hai, mới, do con người tạo ra, nhưng cũng quan trọng như giới tự nhiên thứ nhất. Nguyên tắc sáng tạo của văn hoá thể hiện ở chỗ nó thường xuyên định hướng vào cái mới, vào việc tích luỹ những sản phẩm vật chất và tinh thần, vào đổi mới công nghệ nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, xây dựng thế giới mới. Từ đó, nó nhấn mạnh vai trò của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Văn hóa Tây Âu 12 Cận đại với những đặc điểm trên đã tạo nên những tiền đề tư tưởng cho triết học, đó là những quan niệm biện chứng về xã hội và tư duy. Thêm vào đó, những tiến bộ đáng kể của khoa học, nhất là các ngành khoa học tự nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình thống trị trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỷ XVII - XVIII. Việc phát minh ra điện và cách sử dụng điện năng góp phần tạo ra bước nhảy vọt trong sự phát triển của sản xuất từ công trường thủ công tới công nghiệp cơ khí, đồng thời chứng thực những tư tưởng phát triển đầu tiên của khoa học về sự bảo toàn và chuyển hoá năng lượng và vật chất của vũ trụ. Những công trình nghiên cứu của Lamác, Linnơ, việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhúc đòi hỏi phải có cách lý giải mới về bản chất của sự sống, nó chứng tỏ rằng thế giới tự nhiên luôn luôn vận động và phát triển. Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh, Pháp, Italia với nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử, thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến đã trở nên lỗi thời. Phương thức sản xuất mới tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với các phương thức sản xuất đã có. Lực lượng sản xuất phát triển nhanh, công cụ lao động ngày càng hiện đại tạo ra một khối lượng hàng hoá khổng lồ, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người. Đặc biệt, cách mạng công nghiệp ở Anh, cách mạng tư sản Pháp càng khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới, đánh dấu sự mở đầu của nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại. Trong khi các nước Tây Âu có những bước chuyển biến nhảy vọt như vậy thì nước Đức lúc này vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, Liên bang Đức chỉ tồn tại về mặt hình thức, còn trên thực tế đất nước vẫn phân tán thành nhiều tiểu vương quốc tách biệt nhau, tình trạng cát cứ vẫn còn tồn tại. Cùng với đó kinh tế kém phát triển, manh mún, không đủ sức mạnh, năm 1822 cả 13 nước Đức mới chỉ có 2 máy hơi nước, nông nghiệp đình đốn. Về chính trị, triều đình vua Phổ Phriđrích Vinhem vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực và duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát, cản trở đất nước phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính sự phân tán của nước Đức làm cho giai cấp tư sản Đức không đủ sức mạnh và bản lĩnh để lật đổ chế độ phong kiến Phổ, ngược lại còn thoả hiệp với chế độ đó để cai trị đất nước. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển nhanh và quan hệ sản xuất đã lỗi thời ngày càng bộc lộ gay gắt và được thể hiện ngay trong những tác phẩm của các đại biểu triết học cổ điển Đức. Họ là những người thể hiện thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX. Nhận thấy sự trì trệ của xã hội Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ của giai cấp tư sản nhiều nước, họ biểu thị nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản đấu tranh vì một trật tự xã hội mới ở Đức, nhằm đem lại sự thịnh vượng, phồn vinh và thống nhất đất nước. Nhưng khác với giai cấp tư sản ở các nước Tư bản phát triển, giai cấp tư sản Đức đã từng thoả hiệp với tầng lớp quý tộc Phổ, giữ lập trường cải lương trong quá trình phát triển đất nước. Điều đó thể hiện tính chất yếu kém, mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, chính vì vậy những tư tưởng trong triết học cổ điển Đức mang tính trừu tượng, khó hiểu và mâu thuẫn, mặc dù thành công của cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) đã thức tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh dũng cảm hơn, nhưng chưa đạt được tính kiên quyết và triệt để. Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị nhưng nước Đức thời kỳ này lại đạt được sự phát triển rực rỡ về triết học, văn hoá và nghệ thuật. Đây là quê hương của nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như Gớt, Sinlơ, Hécđơ, Vônphơ, Lessing, Một mặt họ tiếp thu những di sản tư tưởng và văn hoá Đức truyền thống, kế thừa các quan điểm của Nicôlai Kuzan, Lépnít mặt khác, kết hợp với tư tưởng Khai sáng và văn hoá Pháp thế kỷ 14 XVIII, từ đó tạo nên những nét đặc trưng cơ bản của văn hoá Tây Âu thời kỳ Cận đại. Bối cảnh lịch sử đó ở Tây Âu và nước Đức đặt trước các nhà triết học nhiều vấn đề cần giải quyết, tư tưởng siêu hình học thế kỷ XVII (với các đại biểu chính như Đềcáctơ, Xpinôza, Lépnít) từng đóng vai trò to lớn trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá tri thức con người đã không còn đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn và tư tưởng Tây Âu thế kỷ XVIII nữa, khi mà hàng loạt các khoa học đã đủ sức phát triển tách ra khỏi cái nôi triết học của mình, trở thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Ngay từ cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, đã xuất hiện những xu hướng xét lại siêu hình học và các giá trị tư tưởng truyền thống. Tuy nhiên, triết học Tây Âu Phục hưng và Cận đại (ngay cả triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII) tuy từng là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản tiến hành các cuộc cách mạng xã hội, phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi quan niệm cơ học về thế giới, tư duy siêu hình thống trị trong thời kỳ này không còn khả năng lý giải bản chất của thực tiễn xã hội đang diễn ra cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Thực tiễn trên đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải có cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan điểm mới về khả năng và hoạt động của con người. Và triết học cổ điển Đức với các đại biểu I. Cantơ, Phichtơ, Senlinh, Hêghen, Phoiơbắc ra đời nhằm đáp ứng những sứ mệnh lịch sử đó của không chỉ riêng nước Đức, mà cả phương Tây nói chung. Triết học của họ được xem như những cơ cấu tinh thần thống nhất, với việc đề cao vai trò của triết học trong lịch sử loài người, trong phát triển văn hoá của thế giới. Triết học có sứ mệnh tinh thần cao cả là thực hiện một sự phản tư sâu rộng và tràn đầy tinh thần phê phán đối với hoạt động sống của con người. Hêghen từng coi triết học là thời đại đương thời của nó được tư 15 duy nhận thức, ông đề cao triết học vì nó là một khoa học chặt chẽ và có hệ thống, triết học được củng cố bởi khoa học để quay trở lại cung cấp những định hướng nhân văn và phương pháp luận cho khoa học. Họ cũng đặc biệt đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, thực hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận đến chỗ coi con người như một chủ thể hoạt động là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Các nhà triết học cố gắng suy luận về con người nhờ nghiên cứu những hình thức hoạt động khác nhau của con người, kể cả hoạt động xã hội, bàn luận về xã hội, con người xã hội trong khuôn khổ của triết học như triết học pháp quyền, triết học đạo đức, triết học lịch sử toàn cầu, triết học nghệ thuật và triết học tôn giáo. Với Hêghen, ông khẳng định con người là sản phẩm của một thời đại lịch sử nhất định nên mang bản chất xã hội. Ông đề cao sức mạnh trí tuệ và hoạt động của con người đến mức cực đoan, thần thánh hoá con người, coi con người là chúa tể của tự nhiên, bản thân tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt động của con người. Triết học cổ điển Đức dựa trên một cách nhìn biện chứng về thế giới hiện thực mà hạt nhân của nó là quan điểm chỉnh thể, phát triển về thế giới. Quan điểm phát triển được áp dụng vào nghiên cứu tất cả mọi lĩnh vực sinh hoạt của con người: tự nhiên, xã hội, con người, nhận thức, khoa học. Với việc phát hiện ra những quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng, Hêghen đã xây dựng nó trở thành một khoa học về sự phát triển của tất thảy mọi sự vật và tư tưởng. Ý nghĩa thực sự cách mạng và khoa học của triết học Hêghen ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu của những kết quả của tư tưởng và hành động con người. Theo Hêghen, chân lý mà triết học có nhiệm vụ phải nhận thức, không còn là một tập hợp những nguyên lý giáo điều, những kết luận có sẵn mà chân lý nằm trong chính quá trình nhận thức, trong 16 sự phát triển lịch sử lâu dài của khoa học. Để nhận thức được chân lý thì nguyên tắc chung chính là tôn trọng và đi theo con đường lý tính vạch ra. Không thể xem xét sự phát triển của lịch sử nhờ tiên tri, trực giác mà cần phải nghiên cứu nó trên cơ sở khoa học lý luận. Với cách nhìn biện chứng bao quát toàn bộ hiện thực, triết học cổ điển Đức tập trung soi tỏ nguyên tắc tự do và những giá trị nhân văn khác. Nó cũng tiến hành hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân loại đạt được từ trước tới giờ. Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan con người, khôi phục quan niệm coi triết học là khoa học của các khoa học. Thực tiễn nước Đức đã tạo ra những yêu cầu buộc triết học phải chuyển mình mạnh mẽ, đòi hỏi các nhà tư tưởng phải có một cái nhìn mới, phản ánh đúng hiện thực cũng như vạch ra con đường để đưa nước Đức thoát khỏi tình trạng kém phát triển về kinh tế, chính trị so với các nước khác. Và các nhà triết học cổ điển Đức đã làm được nhiều cho dân tộc mình và cho nhân loại. Có thể khái quát thành một số điểm nổi bật sau: Thứ nhất, thành tựu triết học cơ bản của thời đại này là phép biện chứng, mặc dù còn trên cơ sở duy tâm nhưng nó đã mở ra một hướng đi mới cho tư duy con người. Những nguyên tắc lịch sử, lôgíc đã ăn sâu vào tư duy triết học hình thành tư tưởng lôgíc học biện chứng mới. Thứ hai, mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức được xem xét trong sự tác động qua lại hai chiều, đặc biệt nhấn mạnh tính tích cực của ý thức, sự thâm nhập của chủ thể vào khách thể và sự tương tác liên tục giữa chúng. Thứ ba, lĩnh vực tinh thần được nghiên cứu trên quy mô rộng hơn, nó bao gồm cả những quá trình hữu thức, vô thức chưa kiểm soát được. Tính có hệ thống của tư duy còn bao gồm cả tính tự sinh, hoạt động vô 17 thức của con người hiện diện cả trong hành vi sáng tạo là nơi vai trò quyết định thuộc về trí tưởng tác tạo. Thứ tư, xã hội được xem xét trong tính quy luật của nó trải qua các giai đoạn phát triển hợp quy luật trong lịch sử. Thứ năm, triết học cổ điển Đức đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề thẩm mỹ học, đạo đức học và chủ nghĩa nhân bản, những vấn đề cốt lõi liên quan đến con người cũng như các hình thái ý thức của xã hội loài người. Triết học cổ điển Đức thực sự là một thành tựu to lớn của lịch sử tư tưởng bởi những ý nghĩa chung nhân loại, nó đã cố gắng trả lời cho những vấn đề mà loài người đã tự đặt cho mình ngay từ khi triết học xuất hiện, và cho đến nay câu trả lời ấy vẫn còn ý nghĩa bởi nó đã đề cập đến những thành tố căn bản của tự thân tồn tại người. Có lẽ vì những lý do đó mà chúng ta không thể không quay lại với những tư tưởng cơ bản của triết học cổ điển Đức giúp giải phóng tư duy khỏi những khuôn mẫu hình thức, sáo mòn đưa nhận thức của con người đến với chân lý, làm cơ sở cho hành động thực tiễn. Nằm trong bối cảnh văn hoá - tinh thần chung của Tây Âu và nước Đức cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, triết học Hêghen không thể không chịu ảnh hưởng của nó và không thể không mang những đặc điểm chung như đã nêu của triết học thời kỳ đó. Nhưng triết học Hêghen cũng còn chịu sự ảnh hưởng của nhiều tư tưởng triết học khác đã có trong lịch sử, là điều làm nên phép biện chứng và đặc thù của chủ nghĩa duy tâm khách quan đặc sệt màu sắc Hêghen. Tại đây luận văn chuyển sang khảo sát một số tiền đề lý luận quan trọng nhất trong lịch sử và trong chính khuôn khổ triết học Cổ điển Đức cho sự hình thành quan niệm của Hêghen về lôgíc học. 1.1.2. Tiền đề lý luận của lôgíc học Hêghen * Triết học Hy Lạp cổ đại (Học thuyết logos của Heraclit và ý niệm của Platôn) 18 Heraclit (khoảng 544 - 483 tr.Cn) là nhà biện chứng ngây thơ nổi tiếng ở Hy Lạp cổ đại, ông xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc nhưng bản thân lại sống nghèo khổ. Dưới con mắt của Heraclit, mọi sự vật trong thế giới đều thay đổi, vận động, phát triển không ngừng: Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông [trích theo: 68, 157 - 158], tức mọi cái chỉ xảy ra một lần, không lặp lại mặc dù giữa các sự vật có thể có sự kế thừa nhất định. Hêghen nhận xét: Khi Heraclit nói: Tất cả đều trôi chảy thì đấy chính là trở thành được phát biểu như là quy định nền tảng của tất cả những gì đang tồn tại [14, 316]. Như vậy Heraclit coi sinh thành là phạm trù cơ bản của mọi tồn tại. Ông cũng thừa nhận sự tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các mối quan hệ khác nhau. Chẳng hạn đối với loài cá thì nước là rất cần thiết cho sự sống, nhưng đối với con người thì không thể sống trong nước được, cũng như một con khỉ dù đẹp đến đâu thì vẫn xấu nếu đem so với con người. Bản thân logos là sự thống nhất của các mặt đối lập. Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lòng nó luôn luôn diễn ra các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau, nhờ các cuộc đấu tranh đó mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi, sự vật khác ra đời. Điều đó làm cho vũ trụ thường xuyên phát triển và trẻ mãi không ngừng. Vì thế đấu tranh là quy luật phát triển của vũ trụ. Bản thân đấu tranh luôn diễn ra trong sự hài hoà nhất định, dựa trên sự quy định của logos. Platôn (khoảng 427 - 347 tr.Cn) là một trong những nhà tư tưởng kiệt xuất nhất thời kỳ cổ đại mà Hêghen đánh giá có ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển tư tưởng, văn hoá tinh thần của nhân loại. Trong quan điểm bản thể luận của mình, Platôn cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều chỉ tồn tại dưới dạng đơn lẻ, nhất thời, do đó các tri thức mang tính chất chung và bao quát là thuộc về lĩnh vực tinh thần thuần tuý, chứ không phải là tri thức thuộc về các vật tự nó. Như vậy là tri thức của con người không phải là sự phản ánh các sự vật, mà trái lại, là bản chất của chúng. Các ý niệm, theo cách hiểu 19 Tải về bản full
|