Thực trạng chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng ở Việt Nam

Mới đây, ngày 10/12, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký ban hành Quyết định số 1977 thành lập Ban chỉ đạo và Tổ công tác chuyển đổi số ngành ngân hàng, do Thống đốc Nguyễn Thị Hồng làm Trưởng ban và hai Phó Thống đốc làm Phó Trưởng ban. Trước đó, ngày 11/5, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cũng ký Quyết định số 810 phê duyệt “Kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”… Những động thái mới này cho thấy, chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng đã và đang tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ, từ đó góp phần thúc đẩy tiến trình chuyển đổi số quốc gia.

Mạnh mẽ chuyển đổi

Trong cuộc đua chuyển đổi số, ngân hàng được đánh giá là một trong những ngành chuyển đổi số khá nhanh và toàn diện. Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng nhìn nhận, hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam đã và đang có những chuyển biến tích cực trong việc ứng dụng công nghệ thông tin một cách năng động, sáng tạo vào hoạt động kinh doanh. Thống kê từ Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến nay, có 95% tổ chức tín dụng đã và đang xây dựng, triển khai chiến lược chuyển đổi số.

Trong đó, thống kê riêng tại 10 ngân hàng thương mại lớn cho thấy: mức đầu tư cho chuyển đổi số ước tính lên đến 15.000 tỷ đồng mỗi năm; chi phí đầu tư nguồn lực hoạt động chuyển đổi số trung bình chiếm từ 20-30% tổng chi phí đầu tư hoạt động. “Công nghệ đã và đang mang lại những lợi ích về tự động hóa quy trình, nâng cao năng suất lao động, tăng trải nghiệm khách hàng, giảm thiểu chi phí vận hành cho các ngân hàng. Ðặc biệt, cuộc đua digital banking cũng đang diễn ra khá sôi nổi tại Việt Nam. Dịch vụ ngân hàng đã len lỏi vào mọi ngóc ngách của đời sống, kết hợp với các lĩnh vực, ngành nghề để xây dựng hệ sinh thái thông minh, toàn diện” - ông Nguyễn Quốc Hùng nói.

Thực tế mấy năm nay, các ngân hàng Việt Nam đã quan tâm nhiều hơn tới việc chuyển đổi số. Nhiều ngân hàng đã có hơn 90% giao dịch là trên kênh số. Theo Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Khối khách hàng cá nhân ngân hàng VPBank Phùng Duy Khương, qua vài năm thực hiện chiến lược chuyển đổi số toàn diện, đến nay, 100% sản phẩm và dịch vụ của VPBank đều có thể được cung ứng qua các kênh số hóa để đem lại trải nghiệm khách hàng tốt hơn. Tính đến hết tháng 9/2021, tổng lượng giao dịch số trên các kênh của VPBank đã chiếm 98%, thỏa mãn thói quen mới thích tự phục vụ, tự trải nghiệm của người dùng. Tỷ lệ khách hàng mở mới thông qua kênh ngân hàng số cũng chiếm tới 83% tổng các kênh. Bên cạnh đó, hơn 80% dịch vụ chăm sóc khách hàng đã được VPBank giải quyết và cung cấp qua kênh tổng đài và các kênh trực tuyến khác.

Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng SHB Ðỗ Quang Vinh cũng cho biết, quan điểm chuyển đổi số tại Ngân hàng SHB bắt nguồn từ chính trải nghiệm của khách hàng, dựa vào nhu cầu thực tế của khách hàng. “Trong quá trình chuyển đổi số, SHB đã áp dụng phương pháp luận: Con người và sự tương tác quan trọng hơn quy trình và công cụ; giải pháp có giá trị tốt hơn một bộ tài liệu đầy đủ; hợp tác với khách hàng quan trọng hơn là chỉ đàm phán hợp đồng với khách hàng; ứng phó và phản hồi với các thay đổi hơn là thực hiện theo kế hoạch đã lập sẵn;... Ðây chính là tiền đề để SHB triển khai chuyển đổi số thành công”-ông Ðỗ Quang Vinh nhấn mạnh.

Và cuộc đua chuyển đổi số trong hệ thống ngân hàng càng được thúc đẩy mạnh mẽ hơn khi trên thị trường hiện nay, không riêng các ngân hàng thương mại, mà sự hiện diện ngày càng nhiều của các công ty Fintech cũng thúc đẩy thói quen thanh toán không dùng tiền mặt của người dân. Theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước, số lượng các Fintech tham gia cung ứng dịch vụ trên thị trường Việt Nam tăng khoảng gần 4 lần, từ 40 công ty [năm 2016] lên tới 150 công ty [năm 2020], hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau như thanh toán, chuyển tiền, cho vay, tài chính cá nhân… Trong đó, có những Fintech hoạt động độc lập, trở thành đối thủ cạnh tranh của ngân hàng nhưng một số khác lại hợp tác với các ngân hàng truyền thống nhằm tận dụng quy mô, nguồn vốn. “Sự hợp tác giữa các ngân hàng và Fintech chắc chắn mang lợi ích cho cả hai bên và cho xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, ngân hàng hợp tác với công ty Fintech là xu hướng tất yếu”-Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietcombank Phạm Quang Dũng chia sẻ. Ðồng thời, ông Dũng cũng cho rằng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết hợp dịch vụ tài chính và công nghệ, tạo ra các dịch vụ, sản phẩm mới trong lĩnh vực tài chính ngân hàng với lợi thế tốc độ, năng lực sáng tạo, khả năng ứng dụng các công nghệ tiên tiến như điện toán đám mây [cloud computing], dữ liệu lớn [big data], trí tuệ nhân tạo [AI], Internet kết nối vạn vật [IoT]…

 Khách hàng giao dịch tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn-Hà Nội [SHB]. Ảnh: TRẦN HỮU

Xây dựng hệ sinh thái toàn diện

Như vậy có thể thấy, chuyển đổi số đã và đang là xu thế tất yếu của các ngân hàng. Cách mạng công nghiệp 4.0 và bối cảnh đại dịch Covid-19 càng đặt ra nhiều thách thức đòi hỏi các ngân hàng cần có sự chuyển đổi mạnh mẽ hơn để bắt kịp và thích ứng với bối cảnh mới. Tuy nhiên, như chia sẻ của Phó Tổng Giám đốc VietinBank Trần Công Quỳnh Lân, thì việc chuyển đổi số của toàn hệ thống còn gặp một vài rào cản khi đến nay cơ chế pháp lý hỗ trợ tiến trình này vẫn chưa đồng bộ. Ðơn cử như eKYC để mở tài khoản, nhưng để cấp chữ ký số ngân hàng vẫn yêu cầu phải gặp mặt trực tiếp-điều này cũng đồng nghĩa quy trình chuyển đổi số chưa được thực hiện 100%. “Nếu không làm việc cấp chữ ký số trực tuyến hoàn toàn thì các giai đoạn sau đều sẽ bị gián đoạn. Vì vậy, cần sớm có cơ chế cho phép cấp chữ ký số trực tuyến, bởi nền tảng công nghệ tại Việt Nam hiện nay có thể làm được việc này từ công nghệ sinh trắc học và dữ liệu dân cư quốc gia được tích hợp trên thẻ căn cước công dân”-ông Trần Công Quỳnh Lân nêu kiến nghị.

Ông Phạm Anh Tuấn, thành viên Hội đồng quản trị, Trưởng ban Hiện đại hóa Công nghệ Vietcombank cũng cho hay, đa phần sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng tại Việt Nam hiện mới chỉ dừng lại ở từng lĩnh vực cụ thể, mang tính chất manh mún. Do vậy, để chuyển đổi số thành công, các ngân hàng bên cạnh việc xây dựng hệ sinh thái số cho riêng mình thì cũng cần cùng nhau xây dựng hệ sinh thái số chung cho cả ngành. “Ðây là điều rất quan trọng bởi với hệ sinh thái chung, các ngân hàng có thể chia sẻ dữ liệu, chia sẻ thông tin; đặc biệt, nếu kết nối được với bộ, ban, ngành khác sẽ giúp hạn chế nhiều rủi ro cho các ngân hàng”-ông Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh.

Ðáng chú ý, Chủ tịch Hội đồng quản trị Vietcombank Phạm Quang Dũng cũng chia sẻ thêm, trong xu hướng ngân hàng hợp tác với Fintech, nhiều ngân hàng Việt Nam đang chủ động tìm các công ty Fintech làm đối tác phù hợp. Nhưng cùng với đó, các cơ quan quản lý và các ngân hàng cần xây dựng cơ chế khuyến khích, khuôn khổ pháp lý cho sự hợp tác này. Ðồng quan điểm, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, các ngân hàng cần kết hợp với các công ty Fintech tạo ra hệ sinh thái chung để tận dụng thế mạnh của nhau trong việc nâng cao trải nghiệm của khách hàng. “Xét một cách khách quan, tiến trình chuyển đổi số tại các ngân hàng Việt Nam còn thiếu tính tổng thể. Hệ sinh thái đã được thiết lập nhưng chưa đầy đủ do chưa tương thích về công nghệ kết nối, giao diện, lập trình,…”-ông Nguyễn Quốc Hùng chỉ rõ. Vì vậy, cũng theo ông Hùng, hiện hành lang pháp lý chưa theo kịp tốc độ chuyển đổi số ngân hàng nên sự phát triển của dịch vụ mới còn hạn chế nhất định. Muốn chuyển đổi số thành công cần phải có một hành lang pháp lý đầy đủ.

Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Phạm Tiến Dũng khẳng định, kế hoạch chuyển đổi số ngành ngân hàng đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 đặt mục tiêu phát triển các mô hình ngân hàng số, gia tăng tiện ích, trải nghiệm khách hàng. Ðể thực hiện mục tiêu này, thời gian tới Ngân hàng Nhà nước sẽ tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số, phát triển hạ tầng số, kết nối, chia sẻ dữ liệu ngân hàng với dữ liệu ngành, lĩnh vực khác, hình thành các mô hình ngân hàng số, nâng cao công tác an ninh, an toàn bảo mật.

HỒNG ANH

ThS. ĐẶNG THỊ HỒNG NHUNG [Bộ môn Tài chính - Kế toán, Khoa Kinh tế - Quản trị kinh doanh, Trường Đại học An Giang, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh]

TÓM TẮT:

Hệ sinh thái ngân hàng số đang phát triển ở Việt Nam trong giai đoạn đầu với sự “bùng nổ” nhiều tiềm năng phát triển, đặc biệt trong bối cảnh tác động của đại dịch Covid-19 đã đặt ra những yêu cầu cần tăng cường, thúc đẩy sử dụng các dịch vụ ngân hàng số, nhằm đảm bảo sự hoạt động liên tục của hệ thống ngân hàng. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm chỉ ra những cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số mà các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt.

Từ khóa: chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp 4.0, ngân hàng số.

Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 1813/QĐ-TTg về Đề án phát triểnthanh toán không dùng tiền mặttại Việt Nam giai đoạn 2021-2025. Một trong những nội dung tại Đề án Phát triển thanh toán không dùng tiền mặt đó là, Thủ tướng Chính phủ giaoNgân hàng Nhà nướcphối hợp với Bộ Tư pháp, các bộ, ngành liên quan nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách vềtiền kỹ thuật sốquốc gia giai đoạn 2021 - 2025.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng được giao trong năm 2022 phải hoàn thành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính [Fintech] trong lĩnh vực ngân hàng. Điều này nhằm quản lý, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và triển khai các mô hình hợp tác, kinh doanh mới trong cung ứng dịch vụ thanh toán.

Phát triển ngân hàng số là xu thế tất yếu, “thổi” làn gió công nghệ giúp các ngân hàng cải thiện quy trình làm việc nội bộ, cung cấp sản phẩm dịch vụ, chứng từ cũng như phương thức giao dịch với khách hàng,… Với khách hàng, lợi ích của các ứng dụng tài chính - ngân hàng đến từ việc sử dụng dịch vụ thuận tiện, bảo mật hơn, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng tài khoản.

Nhận biết được vai trò quan trọng của việc cần phải phát triển ngân hàng số tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tác giả quyết định chọn đề tài “Cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số đến ngành ngân hàng”.

2. Cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động chuyển đổi số tại cácngân hàng điển hình

Cách mạng công nghiệp 4.0 thúc đẩy các ngân hàng toàn cầu nỗ lực thích ứng và cập nhật công nghệ theo hướng số hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và gia tăng trải nghiệm cho khách hàng. Ngân hàng số [Digital Banking] mở ra kỷ nguyên mới cho ngành Tài chính, giúp thay đổi thói quen thực hiện các giao dịch tài chính tại quầy truyền thống sang ứng dụng trên laptop hoặc điện thoại thông minh.

Ngân hàng số [Digital Banking] là một hình thức ngân hàng số hóa tất cả những hoạt động và dịch vụ ngân hàng truyền thống. Theo đó, mọi giao dịch ngân hàng đều được thực hiện qua Internet thông qua các hình thức như GPRS/3G/4G/Wifi, diễn ra mọi lúc mọi nơi. Khách hàng không phải đến chi nhánh hay phòng giao dịch ngân hàng, chỉ cần vài thao tác đơn giản, trong 1 - 2 phút có thể thực hiện mọi giao dịch trực tuyến, như: thanh toán; chuyển khoản/chuyển tiền; vay vốn; gửi tiết kiệm; nộp tiền vào tài khoản; quản lý tài khoản; tham gia các sản phẩm đầu tư, bảo hiểm;… Đáng chú ý, hiện nay, nhiều dịch vụ thanh toán mới, hiện đại như: thẻ ngân hàng, QR Code, ví điện tử,… đã được các ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán đẩy mạnh triển khai.

Theo kết quả khảo sát của Visa, ngày càng nhiều người quan tâm đến các phương thức thanh toán mới trên thị trường. Thanh toán sinh trắc học [chẳng hạn như quét vân tay, nhận dạng giọng nói/khuôn mặt hoặc quét võng mạc] được quan tâm đặc biệt. Có tới 83% người tiêu dùng trong nước hiện đã biết đến các phương thức thanh toán này và đa số cũng quan tâm trải nghiệm chúng. Thẻ không số cũng dần được nhận biết bởi 62% người tiêu dùng và có tới 77% người tiêu dùng sẽ sử dụng chúng cho các giao dịch trong tương lai.

Theo McKinsey [2021], thị trường tiêu dùng của châu Á đang thay đổi mạnh mẽ với các góc độ tăng trưởng mới, liên quan mật thiết đến sự phát triển của công nghệ, mang lại cơ hội cho các dịch vụ tài chính số, theo nghiên cứu mới "Beyond income: Redrawing Asia's consumer map" của ViệnToàn cầu McKinsey [MGI].

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối tháng 4/2021, cả nước có trên 79 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai thanh toán qua Internet và 44 tổ chức thanh toán qua điện thoại di động. Trong 4 tháng đầu năm 2021, thanh toán điện tử qua Internet, điện thoại di động, QR Code đạt được kết quả đáng ghi nhận, thu hút số lượng lớn khách hàng sử dụng. So với cùng kỳ 4 tháng đầu năm 2020, giao dịch qua kênh Internet tăng tương ứng 65,9% về số lượng; 31,2% về giá trị; giao dịch qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 86,3% về số lượng; 123,1% về giá trị; giao dịch qua kênh QR Code tăng tương ứng 95,7% về số lượng; 181,5% về giá trị. Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, tính đến tháng 9/2021, tổng số lượng giao dịch qua hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng lần lượt tăng 1,88% về số lượng và tăng 42,58% về giá trị. Hệ thống bù trừ điện tử và chuyển mạch giao dịch tài chính tăng 96,63% về số lượng và 133,11% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020.

Trường hợp Vietcombank, ngân hàng này đã sớm triển khai các sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử ưu việt, tích hợp nhiều tính năng thanh toán. Về mảng dịch vụ thanh toán điện tử, hiện nay, Vietcombank cung cấp chokhách hàng cá nhân các hình thức dịch vụ, như: Ngân hàng số VCB Digibank, VCBPAY, thanh toán thẻ nội địa/quốc tế, cổng dịch vụ công quốc gia trực tuyến, kết nối với các đơn vị trung gian thanh toán như ví điện tử, Napas, Vnpay,… Hiện nay, với hơn 20 triệu khách hàng cá nhân của Vietcombank, khoảng 6 triệu khách hàng đã sử dụng dịch vụ VCB Digibank để giao dịch 24/7. Với ứng dụng ngân hàng số VCB Digibank, ngoài các chức năng cơ bản như chuyển khoản, truy vấn thông tin tài khoản/thẻ, tra cứu thông tin tỷ giá, lãi suất, nhận thông báo OTT,… người dùng còn có thể trải nghiệm các tiện ích khác như thanh toán hóa đơn điện, nước, nạp tiền điện thoại, đặt vé máy bay, tàu xe, quét mã VNPAY-QR,…

Trường hợp Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á, việc ứng dụng công nghệ chuyển đổi số vào ngân hàng nhằm hướng tới nâng cao trải nghiệm người dùng, ngân hàng cũng liên tục cập nhật các tính năng sản phẩm - dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt để phục vụ khách hàng giao dịch thông suốt, tiện lợi hơn. Đây không chỉ là “bước đi” của Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á khi Covid-19 bùng phát, mà còn mang tính chiến lược lâu dài.

3. Cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số đến ngành Ngân hàng

3.1. Những cơ hội trong hoạt động chuyển đổi số mang lại cho ngành Ngân hàng

Thứ nhất, chuyển đổi số đối với hoạt động ngành Ngân hàng như Internet, điện toán đám mây, lưu trữ dữ liệu quy mô lớn [big data],… sẽ mang lại cơ hội cho việc đẩy nhanh tiến trình hướng tới chuẩn hóa các mô hình nghiệp vụ ngân hàng trong tương lai, trong đó bao gồm hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. Chuyển đổi số giúp các ngân hàng thương mại trong nước có cơ hội định hình lại mô hình kinh doanh, quản trị, thanh toán điện tử, hướng tới việc xây dựng các ngân hàng kỹ thuật số thông minh trong tương lai. Từ đó, ngân hàng tập trung phát triển những đối tượng khách hàng mục tiêu - những người dùng có khuynh hướng sử dụng nhiều dịch vụ ngân hàng số.

Hình 1: Dự báo số người dùng dịch vụ ngân hàng số tại châu Á
[theo McKinsey 2021]

đơn vị tính: triệu người

Dựa vào Hình 1, ta thấy dự báo số người dùng dịch vụ ngân hàng số tại châu Á năm 2020 đạt 1.700 triệu người, tăng 1.030 triệu người, tương đương tăng 154% so với năm 2012. Cho thấy xu hướng người dùng tại châu Á ngày càng sử dụng nhiều hơn các dịch vụ ngân hàng số.

Theo số liệu khảo sát của Visa, ngân hàng số đang nhận được sự ủng hộ đông đảo từ người tiêu dùng Việt Nam với 77% và có tới 31% người tiêu dùng sử dụng các dịch vụ này. Động lực thúc đẩy việc áp dụng các hình thức này xuất phát từ sự tiện lợi, người tiêu dùng có thể thực hiện giao dịch bất kỳ lúc nào mà không cần phải đến ngân hàng. Trong đó, dịch vụ thanh toán hóa đơn được người tiêu dùng Việt Nam ưa thích nhất [72%] và tiếp đến là chuyển tiền cho gia đình, bạn bè [67%].

Thứ hai, công nghệ số sẽ góp phần thay đổi cơ cấu tỷ trọng doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Đến năm 2020, tài sản do các chuyên gia tư vấn trực tuyến tự động [robo-adviser] quản lý sẽ tăng 68%/năm, lên đến 2.200 tỷ USD [theo Công ty Tư vấn kinh doanh AT Kearney 2015]; 60% đầu tư công nghệ thông tin sẽ dành cho điện toán đám mây [theo IDC 2015]. Bên cạnh đó, việc lưu trữ dữ liệu lớn và phân tích kinh doanh [business analytics] sẽ giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh.

Thứ ba, trong bối cảnh bùng phát của dịch Covid-19, bên cạnh những ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam, nếu nhìn ở một khía cạnh khác, thì dịch Covid-19 lại được xem như một “đòn bẩy” kích thích tiến trình chuyển đổi số trong hệ thống ngân hàng, trong đó thói quen giao dịch “offline” sang “online” đã được định hình ngày càng rõ rệt hơn. Vì vậy, một số ngân hàng thương mại tận dụng cơ hội tiếp tục đầu tư để phát triển dịch vụ ngân hàng số theo xu thế này. Dễ nhận thấy tiềm năng của các xu hướng này đối với nhóm người dùng trẻ là rất lớn. Trong đó, người tiêu dùng thế hệ Z là lực lượng tiêu dùng cốt lõi của thương mại trên mạng xã hội, với 85% người được khảo sát đã biết về mạng xã hội và 68% hiện đang sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để xem tối thiểu 3 đánh giá liên quan đến sản phẩm trước khi mua hàng lần đầu tiên.

3.2. Những thách thức của hoạt động chuyển đổi số đến ngành Ngân hàng

Thứ nhất, hoạt động chuyển đổi số đối với ngành Ngân hàng tạo ra thách thức trong lĩnh vực thanh toán và hoàn thiện hành lang pháp lý, phục vụ hoạt động thanh toán điện tử. Trong đó, khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách liên quan đến các dịch vụ, phương tiện thanh toán trực tuyến, điện tử mới, hiện đại, tiền ảo, thẻ ảo, tiền điện tử,… là những vấn đề mới và phức tạp, cần được tiếp tục nghiên cứu, đánh giá, sửa đổi, bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tế và sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và viễn thông.

Thứ hai, thách thức còn tồn tại là việc mô hình kinh doanh, quản trị về thanh toán có thể cần được xem xét lại để phù hợp với xu hướng quản trị thông minh, mô hình ngân hàng di động, ngân hàng số, thanh toán điện tử. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần nghiên cứu, tối đa hóa trải nghiệm của khách hàng trong lĩnh vực thanh toán để đáp ứng nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt của khách hàng trong thời đại công nghệ.

Thứ ba, sự phát triển ngày càng tinh vi của công nghệ số cũng kéo theo sự gia tăng lỗ hổng bảo mật và tội phạm công nghệ cao. Đối với lĩnh vực thanh toán gồm thanh toán thẻ qua POS, thanh toán điện tử gần đây có những diễn biến phức tạp với những hành vi, thủ đoạn mới, tinh vi hơn. Do vậy, thách thức cho toàn bộ ngành Ngân hàng Việt Nam nói chung và cho lĩnh vực thanh toán nói riêng trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 chính là vấn đề an toàn cho hệ thống ngân hàng, hệ thống thanh toán, vấn đề bảo mật thông tin và vấn đề về các loại tội phạm công nghệ cao, cũng như thách thức về trình độ, năng lực, số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin.

4. Kết luận

Dựa trên những cơ sở lý luận và thực trạng hoạt động chuyển đổi số tại một vài ngân hàng điển hình, bài viết đi sâu nghiên cứu, nhằm chỉ ra những cơ hội và thách thức của hoạt động chuyển đổi số mà các ngân hàng thương mại đang phải đối mặt. Những cơ hội mà hoạt động chuyển đổi số mang đến cho lĩnh vực ngân hàng gồm đẩy nhanh tiến trình hướng tới chuẩn hóa các mô hình nghiệp vụ ngân hàng trong tương lai, trong đó bao gồm hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; thay đổi cơ cấu tỷ trọng doanh thu và hiệu quả kinh doanh; tiếp cận xu hướng người dùng. Bên cạnh đó, hoạt động chuyển đổi số cũng mang lại một số thách thức đến lĩnh vực ngân hàng, như: yêu cầu hoàn thiện hành lang pháp lý phục vụ hoạt động thanh toán điện tử; mô hình kinh doanh, quản trị về thanh toán cần được xem xét lại để phù hợp với xu hướng quản trị thông minh, mô hình ngân hàng di động, ngân hàng số, thanh toán điện tử.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Lương Văn Hải [2021]. Thách thức đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam trong chuyển đổi số. Truy cập tại //tapchinganhang.gov.vn/thach-thuc-doi-voi-cac-ngan-hang-thuong-mai-viet-nam-trong-chuyen-doi-so.htm
  2. Phạm Tiến Dũng [2022]. Ngân hàng số - Cơ hội và thách thức. Truy cập tại //thaibinh.gov.vn/chuyen-trang-chuyen-muc/hoat-dong-nganh-ngan-hang-thai-binh/ngan-hang-so-co-hoi-va-thach-thuc2.html
  3. PV [2021]. Ngân hàng số phục vụ đa nhu cầu tài chính. Truy cập tại //nhandan.vn/thong-tin-doanh-nghiep/ngan-hang-so-phuc-vu-da-nhu-cau-tai-chinh-648251/
  4. Cấn Văn Lực [2021]. Cơ hội, thách thức và giải pháp đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0. Truy cập tại //antoanthongtin.gov.vn/chinh-sach---chien-luoc/co-hoi-thach-thuc-va-giai-phap-doi-voi-he-thong-ngan-hang-viet-nam-trong-boi-canh-cach-mang-cong-ngh-104605
  5. M.H [2021]. Ngân hàng Nhà nước được giao nghiên cứu tiền kỹ thuật số quốc gia. Truy cập tại //thitruongtaichinhtiente.vn/ngan-hang-nha-nuoc-duoc-giao-nghien-cuu-tien-ky-thuat-so-quoc-gia-37746.html
  6. Vietnamplus [2021]. Đại dịch Covid-19 - Tác nhân thúc đẩy thói quen giao dịch ngân hàng. Truy cập tại //special.vietnamplus.vn/2021/12/07/dai-dich-covid-19-tac-nhan-thuc-day-thay-doi-thoi-quen-giao-dich-ngan-hang/
  7. PV [2021]. Thanh toán điện tử lên ngôi trong đại dịch Covid-19. Truy cập tại //dangcongsan.vn/thong-tin-kinh-te/thanh-toan-dien-tu-len-ngoi-trong-dai-dich-covid-19-598100.html

OPPORTUNITIES AND CHALLENGES OF DIGITAL

TRANSFORMATION IN TH BANKING INDUSTRY

• Master. DANG THI HONG NHUNG

Department of Finance and Accounting

Faculty of Economics - Bussiness Administration, An Giang University

Vietnam National University - Ho Chi Minh City

ABSTRACT:

The digital banking ecosystem of Vietnam is still at its early stage of development but it has great development potential, especially in the context of the on-going COVID-19 pandemic. The pandemic has catapulted the needs for digital banking services to ensure the continuous operation of the banking system. This study aims to point out the opportunities and challenges of digital transformation that commercial banks are facing.

Keywords: digital transformation, the Fourth Industrial Revolution [Industry 4.0], digital banking.

[Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ, Số 2, tháng 2 năm 2022]

Video liên quan

Chủ Đề