Trai tứ chiếng, gái thuyền quyên

  • Nhất cao là núi Chóp Chài Nhất rộng là bể, nhất dài là sông Nhất giang hồ là kẻ đàn ông

    Bồng bềnh một chiếc thuyền giong hải hà

  • Anh đây tài tử giai nhân Vì tình nên phải dấn thân giang hồ

    Nói đây có chị nằm đò


    Mận xanh ăn vậy, đừng chờ đào non

  • Đồn rằng Hà Nội vui thay
    Vui thì vui vậy chưa tày Cổ Đô
    Cổ Đô trên miếu dưới chùa
    Trong làng lắm kẻ nhà nho có tài Sinh ra hoa cống hoa khôi

    Trong hai hoa ấy thì tài cả hai

    • Đồn rằng Hà Nội vui thay Vui thì vui vậy chưa tày Cổ Đô Cổ Đô trên miếu dưới chùa Trong làng lắm kẻ nhà nho có tài Gái thì giữ việc trong nhà

      Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa

      Trai thì đọc sách ngâm thơ,

      Dùi mài kinh sử để chờ khoa thi

  • Lụa này thật lụa Cổ Đô
    Chính tông lụa cống các cô ưa dùng

  • Mười năm lưu lạc giang hồ
    Một ngày tu tỉnh cơ đồ lại nên

  • Nói đãi buôi cho xuôi lòng bạn
    Kẻo sông giang hồ, khúc cạn khúc sâu

    • Nói đẩy đưa cho vừa lòng bạn
      Con sông giang hà chỗ cạn chỗ sâu

    • Nói đẩy đưa cho vừa lòng bạn
      Thiếu chi người bạc vạn tiền mua

  • Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ
    Chợ Cờ Đỏ tuy nhỏ mà đông Thấy em buôn bán anh chẳng vừa lòng

    Để anh đi đánh võ kiếm từng đồng nuôi em

  • Đứng bên ni thấy chiếc thuyền năm ván Ngó sang bên kia, thấy chiếc quán năm gian Thuyền năm ván đang đợi người thương nhớ Quán năm gian đang đợi người nhớ thương Một em nói rằng thương, Hai em nói rằng nhớ Trách ông trời làm lỡ duyên anh Anh ngồi gốc cây chanh Anh đứng cội cây dừa Nước mắt anh nhỏ như mưa Ướt cái quần cái áo Cái quần anh vắt chưa ráo Cái áo anh vắt chưa khô

    Thầy mẹ gả bán khi mô

    Tiếc công anh lặn suốt giang hồ Trời cao anh kêu không thấu Đất rộng anh kêu nọ thông Những người bòn của bòn công

    Nam mô A Di Đà Phật, anh phủi tay không anh về.

Trong Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam có câu:Chim quyên xuống đất ăn trùnAnh hùng lỡ vận lên rừng đốt thanĐốt than thì phải sàng thanLàm sao đừng để lấm gan anh hùng…(Ca Dao Tục Ngữ Việt Nam )Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, lúc Từ Hải cùng Kiều gặp gỡ, có câu:Trai anh hùng gái thuyền quyên Phỉ nguyền bói phượng, đẹp duyên cưỡi rồng(Truyện Kiều)Để giúp các bạn hiểu rõ về từ “Anh hùng”và “Thuyền quyên” có ý nghĩa gì, Nguyên Lạc tôi sưu tầm và viết ra bài này.

Bạn đang xem: Gái thuyền quyên nghĩa là gì

ANH HÙNG

1. PHÂN TÍCH TỪ 

“Anh” trong “anh hùng’ có nghĩa là tốt đẹp, tài hoa hơn người, kiệt xuất, xuất chúng. Nghĩa gốc của chữ “anh” là loài hoa đẹp nhất.Còn “hùng” trong “anh hùng” có nghĩa là người dũng mãnh tài giỏi, siêu quần, kiệt xuấtAnh hùng: Nhân vật phi phàm xuất chúng, chỉ người có kiến giải, tài năng siêu quần xuất chúng.

2. LUẬN ANH HÙNG

a. ĐỊNH NGHĨA“Anh hùng là hành động của một người vì đại cuộc không xem sự sống chết của mình là quan trọng tuyệt đối, sống vì tha nhân, hy sinh vì dân tộc, cho dù có phải chết thì vui lòng đón nhận. Khi bàn đến hai từ “anh hùng” thì ý niệm thành công không nằm trong thuộc tính định nghĩa cho từ đó. Thử tra hai từ Heros trong các bộ Encyclopedia thì biết. Đông Tây đều định nghĩa như thế” (Laiquangnam)(*)b. LUẬN ANH HÙNGTa thử luận về vài nhân vật nổi tiếng:b1. KINH KHANhân vật KINH KHA này ai cũng biết qua việc hành thich TẦN THỦY HOÀNG ĐẾ.Suy gẫm chuyện KINH KHA, ta thấy ông ta đâu phải là người anh hùng.Nguyễn Du đã chê bai: Kinh Kha đi thích khách Tần Thủy Hoàng chỉ vì có người biết đến mình và vì sự đối đãi thừa mứa. Kinh Kha chỉ là một con rối, hành động không vì tấm lòng trung dũng (diệt kẻ tàn bạo, phò người đức độ), đâu có hy sinh vì dân tộc, mà hành động chỉ vì sự mua chuộc và kích động của người khác.Tại sao ông ta lại được nhiều người làm thơ, hát ca để ca tụng, vinh danh?!Anh hùng là như Đặng Dung của VIỆT NAM ta đây, ta hãy thử luận về nhân vật này.b2. ĐẶNG DUNGQuốc thù vị báo đầu tiên bạchKỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.(CẢM HOÀI – Đặng Dung)Thù trả chưa xong đầu đã bạc,Gươm mài bóng nguyệt biết bao ràyTheo Đại Việt sử ký toàn thư: Các vị anh hùng (dưới sự lãnh đạo của Đặng Dung) đã đánh nhau ròng rã trên dưới bảy năm (1407-1413) với một binh lực hơn hẳn mình. Có lúc họ cũng đã thắng nhiều trận lẫy lừng, tưởng chừng như đã thắng, nhưng dài hơi thì cuộc đọ sức đã không cân sức. Than ôi! họ đã bại trận!. Trên đường bị bắt đưa về Yên Kinh ( Bắc Kinh ngày nay) để làm nhục, vua tôi Đặng Dung đã ca hát như không có chuyện gì xảy ra, thắng bại là lẽ thường tình đối với người tráng sĩ một khi họ đã toàn tâm toàn ý , hết lòng, hết sức vì dân tộc. Đặng Dung, trong vai trò lãnh đạo cuộc kháng chiến, đã ngâm cho vua tôi nghe khúc ca cảm khái này, vừa ngâm vừa gõ nhịp xuống ván gỗ thuyền, cùng vui và sẵn sàng đón nhận mọi sự trả thù tàn bạo của kẻ thù.

Xem thêm: Những Câu Nói Hay Về Say Rượu

Trai tứ chiếng, gái thuyền quyên

Đặng Dung

Đây là bài thơ CẢM HOÀI (Nỗi niềm hoài bão) của Đặng Dung ngâm

CẢM HOÀIThế sự du du nại lão hàVô cùng thiên địa nhập hàm caThời lai đồ điếu thành công dịVận khứ anh hùng ẩm hận đaTrí chúa hữu hoài phù địa trụcTẩy binh vô lộ vãn thiên hàQuốc thù vị báo đầu tiên bạchKỷ độ Long Tuyền đái nguyệt ma.

Tạm dịch nghĩa:

NỖI NIỀM HOÀI BÃOThế sự mang mang lại tuổi giàThiên hạ thì vô cùng hãy nhập vào mà hát hàm caThời đến bọn đồ tể, bọn câu cá cũng thành công dễ dàngThời qua anh hùng cũng đành nuốt hậnHết lòng vì chúa có hoài bão xoay trục đấtRửa giáp binh không lối kéo ngược dòng sông ngân hàThù nước chưa báo thì đầu bạc trướcBao thời qua đội trăng mà mài kiếm long tuyền.

Bài thơ này là một bản anh hùng ca mang tâm trạng về thế sự, trong ấy thể hiện rõ phong cách của người tráng sĩ, người anh hùng trong cơn quốc nạn.Vua Lê Thánh Tôn có tặng cho dòng dõi họ Đặng hai câu thơ:Quốc sĩ vô song, song quốc sĩAnh hùng bất nhị, nhị anh hùngb3. HAI BÀ TRƯNG / MÃ VIỆN.Vì Chùa thờ Mã Viện (Phục Ba Tướng Quân hay Mã Phục Ba – ở Hội An /QN) được báo kê bởi chính vị vua thời Nguyễn Gia Long (năm 1838 Vua Mình Mạng), thế nên Lê Ngộ Cát mới viết Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (tác phẩm trường thi, sử thi, diễn đạt Việt Sử bằng thơ Lục Bát, từ đời Hồng Bàng đến cuối đời Tây Sơn.) ngợi ca Mã Viện, đánh giá thấp Hai Bà Trưng. Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca có 22 câu thơ nói về cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng (Bà Trưng quê ở Châu Phong…) Câu thứ 16: “Nữ nhi sánh với anh hùng được sao?”Trong câu này, có 2 danh từ chung kép : “Nữ nhi” và “Anh hùng”. Điều chắc chắn rằng người đọc ai cũng hiểu: “Nữ nhi” chỉ HAI BÀ TRƯNG, còn “Anh hùng” chỉ viên tướng Tàu tên MÃ VIỆN.Ta thử luận về việc “ANH HÙNG” của nhân vật MÃ VIỆN mà ông Lê Ngộ Cát ngợi ca:Như chúng ta đã biết trong sử Việt: Tô Định (nhà Đông Hán) sang xâm lấn Việt Nam; đụng phải sự khôn ngoan, kiên cường của hai bà: Trưng Trắc, Trưng Nhị; hắn phải bỏ của chạy lấy người, chui vào ống đồng trốn thoát , vọt về lại Phương Bắc.Hai Bà đuổi xâm lăng, dành độc lập dân tộc trong 3 năm {40 – 43) Hai Bà Trưng cầm quân khí thế đến nỗi Nhà Hán đă thống nhất nước Tàu , thâu tóm nước Ngô Sở, sau thâu tóm các giòng Việt thuộc Việt Câu Tiển, trừ đất Lĩnh Nam của dân Lạc đă có văn hóa riêng. Hai Bà đánh đau và dữ dội đến nỗi mà các tỉnh lân cận đều sợ. Vua Hán phải điều Mă Viện và các tưởng dạn dày chinh chiến ở chiến trường Tây Bắc, lính chính quy, lực lượng tống trừ bị mang quân qua đàn áp. Mã viện phải gần ba năm (40 – 43) chuẩn bị, huấn luyện đánh phổi hợp thủy bộ với đạo quân nữ giới này.Không những thế mà họ huy động đạo quân đông đảo và đã để lại đất Lĩnh Nam 20 ngàn dân công đầu trộm đuôi cướp. Cứ trung bình một dân công phục vụ cho 10 người lính. Tính ra thì đạo quân này ít nhất trên dưới 20 vạn quân (hai trăm ngàn). Đông hơn dân Lạc thuở ấy.Hai nữ Anh hùng đang đánh với quân chủ lực của một nước Tàu xem như Đại Cường trên thế giới, bên cạnh dế quốc La Mã (Roma). Hai Bà thua trận vì tiềm lực quốc gia ta nhỏ bé quá, trong khi Tàu quyết tâm huy động toàn lực lượng dân tộc Hán.Mã Viện anh hùng chỗ nào?Anh hùng là hai Bà đấy, dám lấy sức “châu chấu đá voi”.Và những người xứng đáng với chữ ANH HÙNG là các vĩ nhân VN: Lý Thuờng Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ…

THUYỀN QUYÊN

1. NGUỒN GỐC CHỮ THUYỀN QUYÊN

a. Thuyền Quyên là một học trò nữ của nhà thơ Khuất Nguyên (Trung Quốc). Khi Khuất Nguyên định can Sở Hoài Vương không nên nghe theo thứ phi và Thượng quan Ngân Thượng (quan đại phu nước Sở), đang thông đồng với giặc mưu chiếm nước Sở, thì bị bà thứ phi này dùng tiền, vàng mua chuộc triều đình phao tin rằng Khuất Nguyên phát điên. Từ đó, không ai nghe lới Khuất Nguyên cả. Khuất nguyên ,bất lực , quẩn trí và trầm mình tại sông Mịch La . Về sau vua Sở bị cầm tù nơi Tần . Và nước Sở bị tiêu diệt.

Chuyên mục: Tổng hợp