Trần thị trọng là ai

Mẹ Nguyễn Thị Nhượng, sinh năm 1916, quê làng Đại Chí, xã Bình An [nay là xã Tây An] thuộc huyện Bình Khê [nay là huyện Tây Sơn], là người phụ nữ đẹp người đẹp nết, bao nhiêu chàng trai xứ võ tán tỉnh, theo đuổi, nhưng ông tơ bà nguyệt lại se duyên kết tóc với chàng thanh niên Võ Bá Cừ, ở Tân Nghi làng dưới liền kề, lớn hơn bà gần mười tuổi. Hai làng đều đất đai khô cằn, nghèo nhất nhì hai huyện An Nhơn và Bình Khê xưa. Điều kiện kinh tế, hoàn cảnh của mỗi gia đình và cộng đồng dân cư giữa làng trên, làng dưới gần như giống nhau; vì vậy mà họ sống với nhau trong ấm ngoài êm và sinh hạ được ba người con, hai trai một gái.

Ông Võ Bá Cừ sớm gia nhập tổ chức Việt Minh, một trong những đội viên tự vệ sắt khỏe mạnh, hăng hái tham gia cùng lực lượng tuyên truyền vũ trang đột nhập vào đình làng Tân Đức, phá tan cuộc bầu cử thủ lĩnh thanh niên thân Nhật. Ông còn tham gia nhiều hoạt động tuyên truyền vũ trang của Việt Minh ở các tổng làng, làng trong phủ, đã làm tê liệt bộ máy tay sai của Pháp và Nhật ở địa phương từ giữa năm 1945, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân vào mùa Thu lịch sử...

Khi đất nước tạm chia hai miền, chính quyền Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp những người kháng chiến cũ, trong đó có gia đình mẹ Nhượng, với chính sách “tố cộng, diệt cộng” cực kỳ độc ác, dã man. Lòng căm thù giặc sục sôi, đã thôi thúc vợ chồng ông Cừ, bà Nhượng cùng nhiều gia đình ở Tân Nghi, xã Nhơn Mỹ bí mật tìm đến với tổ chức và sớm trở thành cơ sở trung kiên, nuôi giấu cán bộ từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Các Bà mẹ Việt Nam anh hùng tham dự buổi gặp mặt đại biểu Mẹ Việt Nam anh hùng toàn quốc năm 2020. Ảnh minh họa/TTXVN

Cuối năm 1964, đầu năm 1965 chiến dịch Đồng khởi ở Bình Định nổ ra, hai làng Tân Đức, Tân Nghi rồi cả xã Nhơn Mỹ được giải phóng, nối liền một vùng giải phóng liên hoàn ở nông thôn trong toàn huyện, toàn tỉnh bao vây thị thành, quận lỵ, tỉnh lỵ. Ông Võ Bá Cừ tham gia Ban tự quản thôn Tân Nghi, hăng hái cùng với nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, hình thành thế trận chiến tranh nhân dân chống địch càn quét, giữ vững vùng giải phóng. Ông đã anh dũng hy sinh trong một trận đánh chống lính bảo an đi càn vào ngày 24-2-1965 và là một trong những liệt sĩ sớm nhất trong thời kỳ này ở quê hương Nhơn Mỹ.

Người con trai cả là Võ Tất Thắng quyết trả thù cho cha và đồng bào bị địch giết hại, anh hoạt động xông xáo trong lực lượng du kích xã, tiếp tục chống địch càn quét vùng giải phóng, chiến đấu rất dũng cảm. Trong một trận đánh quân Nam Triều Tiên càn vào vùng giải phóng, anh bị thương nặng và đã hy sinh vào ngày 23-8-1966. Thế là, hai cha con ông Võ Bá Cừ và Võ Tất Thắng hy sinh chỉ cách nhau non một năm rưỡi, ngay trên mảnh đất quê hương Tân Nghi, khi cuộc chiến tranh bắt đầu bước vào giai đoạn ác liệt.

Người con gái cưng của bà Nguyễn Thị Nhượng là Võ Thị Yến đẹp nhất làng, mới qua tuổi trăng tròn, vừa đi học vừa chằm nón và phụ giúp mẹ chăm lo ruộng vườn. Nhưng trước thù nhà nợ nước, chị một mực xin mẹ lên đường cầm súng giết giặc. Mẹ Nhượng gạt nước mắt tiễn con gái cưng lên đường nối tiếp cha anh cầm súng giết giặc ngay trong năm 1966.

Từ đội viên du kích xã, chị Võ Thị Yến chiến đấu rất ngoan cường, qua thử thách được cấp trên rút về huyện đội và đưa đi học lớp đào tạo cán bộ chỉ huy ở quân khu, ra trường được thăng quân hàm thượng úy và đề bạt làm Huyện đội phó huyện đội An Nhơn. Là nữ chỉ huy xông xáo, năng nổ, miệng nói tay làm, lúc ẩn lúc hiện, vừa phối hợp với đồng đội đánh tập trung, vừa một mình trực tiếp chiến đấu nhiều trận vào sinh ra tử, diệt hàng chục tên lính Mỹ, Nam Triều Tiên và những tên ác ôn có nợ máu với cách mạng và nhân dân ngay trong sào huyệt của chúng, gây cho đối phương bao phen khiếp sợ. Trong khi chuẩn bị phương án đánh chốt điểm cầu Ngãi Chánh, nơi chị ở bị lộ, một đại đội lính bảo an bao vây khui hầm bí mật, chị tung nắp hầm, anh dũng chiến đấu diệt nhiều tên trước tới viên đạn cuối cùng và đã anh dũng hy sinh vào ngày 12-4-1970 tại Nhơn Hậu khi mới vừa tròn 26 tuổi. Chiến công oanh liệt của chị Yến được Chủ tịch nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, là một trong bốn Anh hùng lực lượng vũ trang trong thị xã An Nhơn.

Các Mẹ Việt Nam Anh hùng tại buổi gặp mặt đại biểu Mẹ Việt Nam anh hùng toàn quốc năm 2020. Ảnh minh họa/TTXVN

Những năm sống trong khu dồn Gò Găng, với cảnh gạo chợ nước sông, không ruộng vườn, lại bị địch o ép đủ điều, không biết bao lần vào tù ra tội; mẹ Nhượng nén căm hờn, đau thương, nuốt nước mắt vào trong, chằm từng chiếc nón lá để đổi lấy gạo nuôi người con út là anh Võ Tất Đạt còn nhỏ và tích cực tham gia cơ sở bí mật. Mẹ là một trong những đầu mối cơ sở cách mạng rất quan trọng trong khu dồn, nhiều lần tìm cách đi hợp pháp để chạy thư từ, chuyển thuốc tây, quần áo, đèn pin… từ khu dồn về vùng giải phóng cho cán bộ, bộ đội, du kích. Mẹ cũng làm nòng cốt trong các cuộc đấu tranh, kéo dài cả tuần lễ đòi nhà cầm quyền bồi thường hoa màu, ruộng vườn, mồ mả bị địch cày ủi làm sân bay quân sự Gò Quánh của quân đội Mỹ.

Sau ngày quê hương được giải phóng, mẹ Nguyễn Thị Nhượng trở về làng cũ, được bà con hàng xóm giúp đỡ dựng tạm ngôi nhà tranh tre vách đất, và bắt đầu sống những ngày cuối đời. Vì tuổi già sức yếu và trên thân hình gầy còm của mẹ còn hằn những đòn roi tra tấn của kẻ thù, nên sức khỏe ngày càng yếu dần. Mẹ chỉ được chứng kiến đất nước yên tiếng súng và hưởng cảnh thanh bình hơn mười năm thì trái tim mẹ ngừng đập, tìm về với thế giới người hiền, với chồng và hai con.

Sự hy sinh và chiến công thầm lặng của mẹ Nguyễn Thị Nhượng đã trở thành huyền thoại. Đợt xét khen thưởng ba thời kỳ kháng chiến, huyện đã chọn xã Nhơn Mỹ làm điểm, vì xã có số lượng người có công nhiều nhất so với các xã trong huyện. Khi hội đồng thi đua khen thưởng đọc tên và tóm tắt thành tích của mẹ Nguyễn Thị Nhượng ở Tân Nghi-Nhơn Mỹ, đồng chí Trường An-Bí thư Huyện ủy, một trong những cán bộ tập kết vào Nam sớm nhất ở An Nhơn, được mẹ Nhượng bảo vệ từ những năm đầu thập niên 60, kể lại câu chuyện mẹ đã bất chấp hiểm nguy, mưu trí, dũng cảm che giấu một cán bộ lãnh đạo của huyện ủy khi địch bủa vây, truy lùng gắt gao. Cả hội đồng thi đua khen thưởng đều nhất trí, mẹ Nhượng xứng đáng được nhận mức khen thưởng cao nhất dành cho cơ sở cách mạng, những người có công lớn với đất nước, đó là tấm Huân chương kháng chiến hạng Nhất. Và, mẹ Nguyễn Thị Nhượng cũng là một trong những người mẹ Việt Nam vinh dự được nhận danh hiệu Nhà nước cao quý: Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu tiên.

Nhân kỷ niệm 74 năm ngày Thương binh-Liệt sĩ [27-7-1947 / 27-7-2021], những dòng viết này xin được thay nén tâm nhang dâng lên hương linh Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Nhượng cùng hàng vạn Bà mẹ Việt Nam Anh hùng trong cả nước đã hy sinh những người thân yêu yêu nhất của mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, vì sự trường tồn của dân tộc, sự giàu mạnh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.

TRẦN DUY ĐỨC

Bà mẹ Việt Nam Anh hùng là danh hiệu được Nhà nước Việt Nam phong tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế.

Bà mẹ Việt Nam anh hùng

Tượng bà Nguyễn Thị Thứ - Bà mẹ Việt Nam Anh hùng tiêu biểu

Ngày 17/12/1994, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã ký quyết định tặng và truy tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" đợt đầu tiên cho 19.879 bà mẹ trong cả nước, trong đó có các bà mẹ tiêu biểu: Mẹ Nguyễn Thị Thứ ở Điện Thắng, Điện Bàn, Quảng Nam có 9 con, 1 rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ; Mẹ Phạm Thị Ngư ở Hàm Hiệp, Hàm Thuận, Bình Thuận có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là Anh hùng LLVT nhân dân; Mẹ Trần Thị Mít ở Hải Phú, Hải Lăng, Quảng Trị có 9 con là liệt sĩ; Mẹ Nguyễn Thị Rành, ở Phước Hiệp, Củ Chi, TP Hồ Chí Minh có 8 con là liệt sĩ, bản thân mẹ là Anh hùng LLVT nhân dân; Mẹ Nguyễn Thị Dương ở Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị có 8 con thì 5 con là liệt sĩ [3 người con khác là: Đại tướng Đoàn Khuê, Trung tướng Đoàn Chương và Đại tá Đoàn Thúy]…

Ngày 19/12/1994, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam – Ngày hội Quốc phòng toàn dân, Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã tổ chức trọng thể Lễ tuyên dương Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng lần đầu tiên cho 59 Bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu, đại diện cho gần 2 vạn bà mẹ được phong tặng.

Hưởng ứng Lời kêu gọi của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhiều năm qua, các địa phương, các ngành, đoàn thể trong cả nước đã dấy lên phong trào "Phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Cùng với chế độ đãi ngộ theo quy định của Nhà nước, việc phụng dưỡng của các đơn vị quân đội, các tổ chức đoàn thể xã hội và nhân dân các địa phương đã góp phần nâng cao đời sống tinh thần, vật chất của những Mẹ còn sống.

Dưới sự chỉ đạo của Tổng cục Chính trị, Cục Chính sách là cơ quan chủ trì việc nghiên cứu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn tổ chức thực hiện chính sách "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Ông Nguyễn Mạnh Đẩu với cương vị Cục trưởng đã cùng các ông: Phạm Lam, Đỗ Quang Bích [Phó cục trưởng], Nguyễn Văn Tinh, Lê Thế Hải [Phòng Khen thưởng] và một số cán bộ nghiên cứu thuộc Cục Chính sách giữ vai trò điều tra, khảo sát, phản ánh và là những người trực tiếp "chắp bút", "biên tập" các văn kiện.

Tiêu chuẩn[3]Sửa đổi

Tiêu chuẩn đạt danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng" [kể cả là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam] dành cho những phụ nữ đạt một trong những tiêu chuẩn sau:

  • Có 2 con trở lên là liệt sĩ;
  • Có 2 con mà 1 con là liệt sĩ, 1 con là thương binh với thương tật từ 81% trở lên.
  • Chỉ có 1 con mà người đó là liệt sĩ;
  • Có 1 con là liệt sĩ, chồng hoặc bản thân là liệt sĩ.

Người con là liệt sĩ bao gồm con đẻ và con nuôi của Bà mẹ đã được pháp luật xác nhận, và đã được Chính phủ tặng Bằng "Tổ Quốc Ghi Công".

Bà mẹ có đủ 1 trong 4 trường hợp nêu trên do phải chịu đựng nỗi đau mất con, mất chồng mà bị bệnh tâm thần, vẫn được tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng"

Người chồng là liệt sĩ nói ở trên đây là người đã được Chính phủ tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" mà Bà mẹ là vợ của người đó được hưởng chế độ tuất liệt sĩ.

Danh hiệu này do Chủ tịch nước ký tặng hoặc truy tặng theo đề nghị của Chính phủ.

Người được tặng [truy tặng] được cấp bằng và huy hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh hùng".

Bằng Bà mẹ Việt Nam anh hùng

Huy hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng

Thống kêSửa đổi

Từ tháng 12/1994 đến hết năm 2001, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phong tặng và truy tặng danh hiệu cao quý "Bà mẹ Việt Nam anh hùng" cho:

  • Cả nước: 44.253 bà mẹ[4]
    • Miền Bắc: 15.033 mẹ.
    • Miền Nam: 29.220 mẹ.
    • Tỉnh Quảng Nam là tỉnh có nhiều Bà mẹ Việt Nam anh hùng nhất với 11.658 mẹ.

Trong đó:

  • có con độc nhất là liệt sĩ: 9.903 người.
  • có 2 con đều là liệt sĩ: 1.535 người.
  • có 3 con là liệt sĩ: 10.067 người.
  • có 4 con là liệt sĩ: 1.535 người.
  • có 5 con là liệt sĩ: 258 người.

Tính đến tháng 7/2020, Nhà nước Việt Nam đã phong tặng hoặc truy tặng 139.275 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, trong đó tỉnh Quảng Nam có số lượng được phong tặng và truy tặng cao nhất [15.261 mẹ], tiếp theo là Bến Tre với 6.905 mẹ, Quảng Ngãi có 6.802 mẹ, Hà Nội có 6.723 mẹ.

Từ thập niên 1990, do đất nước đã hòa bình nên rất hãn hữu mới có trường hợp được phong tặng Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bà Lê Thị Minh Thủy [56 tuổi] ở Nha Trang [Khánh Hòa] là Mẹ Việt Nam anh hùng mới nhất, được phong tặng vào tháng 7/2018, bà có chồng và 1 con trai cùng là liệt sĩ [cả 2 đều là phi công, hy sinh khi bay huấn luyện].

Một số bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểuSửa đổi

Một số bà mẹ Việt Nam anh hùng tiêu biểu:[5]

  1. Nguyễn Thị Thập: quê quán Long Hưng - Châu Thành - Mỹ Tho [nay là tỉnh Tiền Giang], có chồng, có con. Liên tục từ khóa I đến khóa VI, bà được bầu vào Quốc hội và giữ chức vụ Phó Chủ tịch Quốc hội từ khóa II đến khóa VI. Trước khi được trao danh hiệu này, bà được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng – Huân chương cao quý nhất của Nhà nước Việt Nam.
  2. Nguyễn Thị Thứ: quê quán thôn Thanh Quýt - Điện Thắng - Điện Bàn - Quảng Nam, có chồng, 9 con và 1 con rể, 2 cháu ngoại là liệt sĩ. Con gái cả của bà là Lê Thị Trị cũng được trao tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng vào ngày 30 tháng 4 năm 2007, vì có chồng và hai con gái là liệt sĩ.
  3. Phạm Thị Ngư [1912-2002]: quê quán Hàm Hiệp - Hàm Thuận - Bình Thuận, có 5 con trai, 2 con gái và 1 con rể là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Suốt nhiều năm chống Mỹ, mẹ Ngư cùng bà con cơ sở đã chuyển ra vùng căn cứ giải phóng nhiều tấn lương thực, thực phẩm, thuốc men tiếp tế cho cách mạng, góp phần đáng kể vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ ở địa phương. Ngày 6/11/1978, mẹ Phạm Thị Ngư đã được Quốc hội và Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, ngày 11/7/1985 mẹ được Hội đồng Nhà nước tặng thưởng huân chương Độc lập hạng Nhất, huân chương Chiến công giải phóng hạng Nhất. Ngày 17/12/1994, mẹ Ngư được Nhà nước phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng.
  4. Lê Thị Hẹ: quê quán: Thôn Linh An, xã Triệu Trạch, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Cả gia đình và họ hàng gần của bà có 7 bà Mẹ Việt Nam anh hùng và 15 liệt sĩ đã hi sinh xương máu vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Riêng gia đình bên chồng của bà có 5 Bà mẹ VNAH và 11 liệt sĩ. Bản thân mẹ cùng 1 con gái, 3 con dâu là Bà mẹ VNAH. Trong số 15 liệt sĩ có 2 con đẻ, 1 con dâu, 1 con rể, 4 cháu nội, 2 cháu ngoại và 4 người cháu gọi mẹ bằng cô ruột.
  5. Trần Thị Viết: ngụ ấp Cả Dứa, xã Tuyên Bình Tây, huyện Vĩnh Hưng, Long An. Cụ Nguyễn Văn Dành là chồng mẹ [sinh năm 1888], là con của một gia đình nghĩa binh tham gia kháng Pháp thời Cần Vương, quê ở miền Trung, để tránh sự truy lùng của quân Pháp đã dạt vào Đồng Tháp Mười sống ẩn dật. Mẹ có 10 người con [8 trai, 2 gái]. Kế thừa truyền thống yêu nước của cha ông, cả 8 con trai của mẹ đều tham gia kháng chiến giải phóng đất nước, và 7 người đã hy sinh [trong đó có 2 người hy sinh khi chưa có vợ và không tìm được mộ]. Năm 1966, cụ Dành qua đời, mẹ Viết bèn xuống tóc quy y ở chùa Thanh Lập [quận Mỹ An, tỉnh Kiến Phong, nay là Đồng Tháp], với pháp danh Diệu Mãnh. Một hôm giặc ập đến chùa bắt mẹ vào trại giam, chúng đánh đập nhưng không khai thác được gì, cũng không thể bắt mẹ gọi các con từ bỏ cách mạng, nên đành phải thả mẹ ra. Ngày 17/12/1994, mẹ Viết được Nhà nước phong danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Bản thân bà là Mẹ Việt Nam anh hùng sống thọ nhất, cũng được sách kỷ lục Việt Nam ghi nhận là người phụ nữ cao tuổi nhất Việt Nam vào năm 2010. Mẹ có hơn 40 cháu nội - ngoại, hơn 150 chắt, khoảng 300 cháu cố 5 đời. Mẹ hưởng thượng thọ 120 tuổi [sinh năm 1892, mất ngày 19/6/2011].
  6. Trần Thị Mít: quê quán Hải Phú - Hải Lǎng - Quảng Trị, có chồng, 6 người con đẻ, 1 con dâu và 1 cháu nội là liệt sĩ.
  7. Nguyễn Thị Rành: ấp Trúc Đèn, xã Phước Hiệp, huyện Củ Chi, có 8 con trai và 2 cháu là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
  8. Lê Thị Tự: quê quán Thanh Quýt - Điện Thắng - Điện Bàn - Quảng Nam Đà Nẵng, có 12 con thì 9 con là liệt sĩ.
  9. Phạm Thị Khánh: quê quán Hòn Đất - Kiên Giang, có 8 con trai thì 7 con là liệt sĩ.
  10. Vǎn Thị Thừa: quê quán Duy Xuyên - Quảng Nam Đà Nẵng có chồng và 4 con là liệt sĩ, bản thân bà là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
  11. Hồ Thị Hạnh và con gái là Trần Thị Thêu: quê quán Ấp Hưng Hoà - Phiến Cầu - Trà Vinh; trong gia đình có 10 người con là liệt sĩ.
  12. 2 chị em Nguyễn Thị Dương, Nguyễn Thị Lạnh, nơi ở 12A Lý Nam Đế và 7/30 Lý Nam Đế - Hà Nội; bà Dương có 8 con thì 5 con là liệt sĩ, bà Lạnh có 1 con duy nhất là liệt sĩ.
  13. 3 chị em ruột Bùi Thị Hai, Bùi Thị Dị, Bùi Thị Sáu ở Hàm Chính - Hàm Thuận - Bình Thuận. Bà Hai có chồng và 4 con là liệt sĩ; bà Dị có 3 con là liệt sĩ; bà Sáu có 4 con là liệt sĩ.
  14. Lê Thị Cháu [tên thật là Lê Thị Lý], dân làng quen gọi là ông bà Diêu Cháu quê ở làng Mai Xá [Gio Mai, Gio Linh, Quảng Trị], chính là người mẹ quặn lòng nuốt hận mang thúng đi lấy đầu con bị giặc Pháp chặt rồi bêu giữa chợ về khâm liệm, mai táng, được nhạc sĩ Phạm Duy ca ngợi trong ca khúc cách mạng "Bà mẹ Gio Linh".[6]

Vinh danhSửa đổi

  • Ngoài được tặng danh hiệu, trợ cấp,... họ luôn được mọi người kính mến gọi là ''Mẹ''.
  • Bài hát ''Hát về mẹ Việt Nam anh hùng'' của nhạc sĩ An Thuyên là bài hát vô cùng nổi bật về những bà mẹ vĩ đại, đã hi sinh tất cả để góp công giành lại độc lập cho dân tộc;
  • Ở Quảng Nam, có Tượng đài Mẹ Việt Nam anh hùng lấy nguyên mẫu từ Mẹ Thứ nhằm tôn vinh Mẹ nói riêng và tất cả những Bà mẹ Việt Nam anh hùng khác nói chung.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Nghị định 176-CP VỀ VIỆC THI HÀNH PHÁP LỆNH QUY ĐỊNH DANH HIỆU VINH DỰ NHÀ NƯỚC "BÀ MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG"
  2. ^ “Danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ra đời như thế nào?”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2017.
  3. ^ ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI [11 tháng 11 năm 2012]. “Pháp lệnh 05/2012/UBTVQH13”.
  4. ^ “Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2009.
  5. ^ “Về những Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2009.
  6. ^ Thanh Hải. “Lễ hội rước hến làng Mai Xá” [bằng tiếng tiếng Việt]. www.baoquangtri.vn. Truy cập 09-11-2010. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= [trợ giúp]; Liên kết ngoài trong |nhà xuất bản= [trợ giúp]Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ [liên kết]

Xem thêmSửa đổi

  • Dự án Tượng đài Bà mẹ Việt Nam anh hùng
  • Nguyễn Thị Thứ
  • Đội quân tóc dài

Video liên quan

Chủ Đề