Vì sao lê lợi chết

Một mặt, Lê triều khiếu vịnh thi tập nói “Hãn về nhà, dốc sức vào việc xây dựng nhà cửa, dùng gạch hoa và đóng chiến thuyền, đánh khí giới”. Trần Nguyên Hãn còn làm nhiều việc tập hợp quần chúng, thi ân bố đức, mua chuộc lòng dân. Tư liệu dân gian vùng Sơn Tây, như Thần tích của khu Đức Lệ, thuộc trang Sơn Bình xưa có nói: “Thái Tổ xét tới công lớn của ông [Trần Nguyên Hãn - T.H.V], liền đặc biệt cho ông cưỡi voi đi trong ba ngày, đi tới đâu được chiếm ruộng tới đó làm “lộc điền”, gọi là tục lễ trọng thưởng bề tôi có công lớn. Nhưng bản chất tướng công là người nhân hậu, không muốn chiếm lấy ruộng dân, nên tướng công chỉ cưỡi voi đến địa phận trang Xuân Lôi thì dừng lại. Sau khi trở về, tướng công mở mang khu Đức Lệ thuộc trang Sơn Bình để phụng thờ tướng công”. Cuốn Đại vương phả lục do Lê Tung soạn vào thời Hồng Đức cũng có chép: “Một hôm, ông sai người bày tiệc, bái yết thần tổ, rồi mời phụ lão, bề tôi ở trang khu tới ăn uống. Ông bảo các vị phụ lão khu Đa Cai và khu Quan Tử rằng: “Tôi từ nay đã được vinh hiển, dân hai khu của các ông đã ở với tôi hết lòng, tôi xin để mệnh về sau cho khu Đa Cai làm hộ nhi cùng khu sở tại Quan Tử thờ cúng. Còn thần tử ở các trang khác, thì ngày nay tôi cho doanh cư, về sau phải lập miếu thờ”. Nhà nghiên cứu Trần Bá Chí còn cho biết truyền thuyết và các thần tích địa phương đều chép: “Cả làng phải kiêng tên hèm của ông là Hãn, đọc ra Hỡn, ai đóng thuyền thì cấm đóng thuyền mũi vuông có trổ mắt rồng hai bên, giống thuyền tả tướng thời xưa”.

Nếu người khác có lẽ là chuyện rất bình thường nhưng trường hợp hành động như Trần Nguyên Hãn thì rất kỳ quái. Chẳng phải Trần Nguyên Hãn đang bị nghi ngờ đó sao? Chẳng phải ông từ quan để tránh sự hiềm nghi đó sao? Vậy sao ông còn “dốc sức” [chữ của Hà Nhậm Đại] đóng thuyền chiến trổ mắt rồng, đánh khí giới, còn đại hội nhân dân đến cùng ăn uống, chia đất đai, hẹn việc thờ cúng, gọi nhân dân là “thần tử”. Dân làng trái lại còn kiêng húy tên của Trần Nguyên Hãn như kiểu người ta kiêng húy tên vua. Ai ở xa không biết còn tưởng Trần Nguyên Hãn đang hiệu triệu quần chúng chuẩn bị khởi sự để lên ngôi thiên tử.

Trần, Lê chia đường

Về phần Lê Lợi, việc lên ngôi của ông chưa thực sự mở ra một thời kỳ ổn định. Thứ nhất, về mặt đối nội, Lê Lợi chỉ là Kiểm hiệu Thái sư, vừa mới giết vua nhà Hậu Trần để đoạt ngôi. Thứ hai, về mặt đối ngoại, nhà Minh chỉ công nhận Hậu Trần là triều đại chính thống ở Đại Việt. Mặc dù cái chết của Trần Cảo đã được sứ thần Đại Việt sang thông báo, nhưng phản ứng của Minh Tuyên Tông là như thế nào vẫn còn chưa rõ ràng. Ở trong tình cảnh không ổn định đó, khả năng duy trì quyền lực ổn định lâu dài của Lê Lợi lại càng bấp bênh. Toàn thư cho biết “Thái Tổ tuổi già nhiều bệnh, lại thêm Quận vương [Tư Tề] điên cuồng bậy bạ, vua [Thái Tông] thì còn trẻ thơ”. Nếu như Lê Lợi chết, vua nối còn trẻ thơ, mà Trần Nguyên Hãn lại khởi binh và thông báo với nhà Minh về việc nhà Hậu Trần tái lập, triều đại mà ông dày công gây dựng có thể sẽ sụp đổ trong phút chốc. Chẳng những Lê Lợi sẽ bị biến thành phản thần tặc tử của triều Trần, mà con cháu ông cũng khó bảo toàn tính mạng. Lê Lợi không thể vừa làm người tốt, vừa làm vua hiền. Trái lại, ông bị đặt trước một nhu cầu bức bách là phải dẹp tan hoàn toàn thế lực Hậu Trần còn sót lại.

Chính trong bối cảnh này mà các thần hạ như Đinh Bang Bảng, Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Nguyễn Tông Chí, Lê Đức Dư thay nhau dâng sớ xin Lê Thái Tổ giết Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo. Đương nhiên không phải lời nói của bọn họ đều vô cớ, vì Trần Nguyên Hãn đã tạo ra rất nhiều hình tích. Lê Thái Tổ đã sai lực sĩ xá nhân bắt Trần Nguyên Hãn về hỏi tội. Kết quả, Trần Nguyên Hãn đã tự sát hoặc gặp nạn trên đường đi mà chết đuối. Trần Nguyên Hãn tự sát tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 2 [1429]. Bế Khắc Thiệu và Nông Đắc Thái nổi loạn tháng 11 năm thứ 3 [1430]. Tháng 2 năm Thuận Thiên thứ 4 [1431], Lê Lợi giết Thái úy Phạm Văn Xảo, rồi thân chinh đánh Thiệu, Thái. Bế Khắc Thiệu thua chạy rồi chết, Nông Đắc Thái bị bắt. Tháng 12 cùng năm thì “Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ thông đồng với Phạm Văn Xảo làm loạn”. Lê Lợi lại một phen đánh dẹp, bắt được Đèo Cát Hãn. Tháng 3 năm thứ 5 [1432], Lê Thái Tổ về đến kinh sư, ban chiếu kể tội Đèo Cát Hãn, có nói: “Năm ngoái thằng Khắc Thiệu ở Thái Nguyên mưu làm phản đích là do tên thằng Hãn âm mưu, năm nay Cát Hãn nổi loạn, là do âm mưu của Xảo. Mầm mống họa loạn không thể không triệt cho hết”. Vô số người bị chỉ điểm là bè đảng của Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo, “bị án tử và đồ rất nhiều”. Vụ án Trần Nguyên Hãn vì vậy mà đích thị oan án, nhưng là oan uổng có cớ.

  ------

[Trích từ sách Mật bổn - những bí ẩn lịch sử Việt Nam cổ trung đại, do NXB Tổng hợp TP.HCM ấn hành]

Tin liên quan

Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới...

Lê Lợi sinh ngày 10-9-1385 [6-8 năm Ất Sửu] tại Lam Sơn [Kẻ Cham], nay thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình "đời đời làm quân trưởng một phương". Ông là con út của Lê Khoáng và Trịnh Thị Ngọc Hương [anh lớn của ông tên Học, anh thứ là Trư]. Ông nối nghiệp cha làm chúa trại Lam Sơn. Khi quân Minh chiếm đất nước, ông nuôi chí lớn đánh đuổi xâm lăng. Quân nhà Minh nghe tiếng ông, dụ cho làm quan, ông không chịu khuất. Ông nói: "Làm trai nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng thơm muôn đời, chớ sao lại chịu bo bo làm đầy tớ người?". Năm Lê Lợi 21 tuổi cũng là năm nhà Minh đem 80 vạn quân sang xâm lược nước Việt. Cuộc kháng chiến chống Minh của vương triều Hồ thất bại, nước Đại Việt rơi vào ách thống trị tàn bạo của giặc Minh. Trước cảnh đất nước bị kẻ thù giày xéo, tàn phá, Lê Lợi đã nung nấu một quyết tâm đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi.

Đầu năm 1416, tại núi rừng Lam Sơn trên đất Thanh Hóa, Lê Lợi cùng với 18 người bạn thân thiết, đồng tâm cứu nước đã làm lễ thề đánh giặc giữ yên quê hương. Đó là hội Thề Lũng Nhai đã đi vào sử sách.

Tin Lê Lợi dựng cờ nghĩa, chiêu mộ hiền tài bay xa, thu hút các anh hùng hào kiệt từ bốn phương kéo về. Đất Lam Sơn trở thành nơi tụ nghĩa. ở đó có đủ các tầng lớp xã hội và thành phần dân tộc khác nhau, với những đại biểu ưu tú như: Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Chích, Nguyễn Xí, Lê Lai, Cầm Quý, Xa Khả Tham... Sau một thời gian chuẩn bị chín muồi, đầu năm 1418, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương, truyền hịch đi khắp nơi, kêu gọi nhân dân đứng lên đánh giặc cứu nước. Lê Lợi là linh hồn, là lãnh tụ tối cao của cuộc khởi nghĩa ấy.

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ mở đầu tới kết thúc thắng lợi [tháng 12-1427], qua các giai đoạn phát triển và chiến lược, chiến thuật của nó đã chứng minh Lê Lợi là người có tầm vóc của một thiên tài, một nhân cách vĩ đại, chỉ thấy ở những lãnh tụ mở đường, khai sáng. Nếu Ngô Quyền với chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 đã chấm dứt thời kỳ 1.000 năm mất nước, mở đầu thời kỳ độc lập mới của dân tộc thì Lê Lợi với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, kết thúc 20 năm thống trị của giặc Minh, khôi phục nền độc lập lâu dài cho Tổ quốc, bắt đầu một kỷ nguyên xây dựng mới. Không có Lê Lợi, không có phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Nhưng Lê Lợi không chỉ là người nhen nhóm, tạo lập ra tổ chức khởi nghĩa Lam Sơn mà ông còn là nhà chỉ đạo chiến lược kiệt xuất. Một nét đặc sắc, mới mẻ trong đường lối chỉ đạo cuộc kháng chiến chống Minh mà Lê Lợi thực hiện là dựa vào nhân dân để tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc. Nhìn vào lực lượng nghĩa binh và bộ chỉ huy, tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa, có thể thấy rõ tính chất nhân dân rộng rãi của nó, một đặc điểm nổi bật không có ở các cuộc khởi nghĩa khác chống Minh trước đó. Dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng xã hội trong một tổ chức chiến đấu, rồi từ cuộc khởi nghĩa ở một địa phương, lấy núi rừng làm căn cứ địa, phát triển sâu rộng thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trên quy mô toàn quốc. Đây là một cống hiến sáng tạo to lớn về đường lối chiến tranh của Lê Lợi và bộ tham mưu của ông, để lại một kinh nghiệm lịch sử quý giá.

Vừa là nhà tổ chức và chỉ đạo chiến lược về chính trị, quân sự, vừa là vị tướng cầm quân mưu trí, quả quyết, Lê Lợi đã vận dụng lối đánh "vây thành diệt viện" theo lý thuyết quân sự ông nghiền ngẫm: Đánh thành là hạ sách. Ta đánh thành kiên cố hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi, khí nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước, đằng sau đều bị giặc đánh, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân cứu viện tới. Khi viện binh bị phá thì thành tất phải hàng". Chiến thuật "Vây thành diệt viện" của Lê Lợi kết hợp với chủ trương "mưu phạt nhị tâm công", uy hiếp, phân hóa, chiêu dụ địch của Nguyễn Trãi tạo nên một phương thức độc đáo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Cuộc vây hãm Vương Thông ở Đông Quan và tiêu diệt viện binh giặc tại Chi Lăng, Xương Giang cuối năm 1427 là kết quả thắng lợi của tư tưởng quân sự của Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Sau khi đuổi hết giặc Minh về nước, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, sáng lập ra vương triều Lê. Lê Lợi làm vua được 5 năm thì mất [1433], an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn, miếu hiệu là Thái Tổ.

Trong sự nghiệp xây dựng đất nước buổi đầu của vương triều Lê, Lê Lợi đã có những cố gắng không nhỏ về nội trị, ngoại giao, nhằm phục hồi, củng cố, phát triển đất nước trên mọi mặt, như tổ chức lại bộ máy chính quyền từ trung ương xuống địa phương; ban hành một số chính sách kèm theo những biện pháp có hiệu quả để khôi phục sản xuất nông nghiệp, ổn định đời sống xã hội. Lê Lợi cũng chú ý tới việc phát triển văn hóa, giáo dục, đào tạo nhân tài. Năm 1428, lên ngôi vua, năm sau [niên hiệu Thuận Thiên thứ 2, 1429], Lê Lợi đã cho mở khoa thi Minh Kinh. Năm 1431, thi khoa Hoành từ. Năm 1433, Lê Lợi đích thân ra thi văn sách. Đấy là chưa kể năm 1426 trong khi đang vây đánh Đông Quan, Lê Lợi đã mở một khoa thi đặc cách lấy đỗ 32 người, trong đó có Đào Công Soạn, một nhà ngoại giao xuất sắc thời Lê Lợi. Nhưng, nhiệm vụ chính trị lớn nhất phải quan tâm giải quyết hàng đầu sau khi đất nước được giải phóng là việc tăng cường củng cố, giữ vững nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Về phương diện này, Lê Lợi đã làm được hai việc có ý nghĩa lịch sử. Thứ nhất, ông đã thành công trong cuộc đấu tranh ngoại giao, thiết lập quan hệ bình thường giữa triều Lê và triều Minh. Thứ hai, Lê Lợi đã kiên quyết đập tan những âm mưu và hành động bạo loạn muốn cát cứ của một số ngụy quân trước, điển hình là vụ Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, Lai Châu. Trong bài thơ làm khắc vào vách đá núi Pú Huổi Chò [bên sông Đà, thuộc Lai Châu] năm 1431 khi đánh Đèo Cát Hãn, Lê Lợi đã nói rõ ý chí bảo vệ sự thống nhất giang sơn:

Đất hiểm trở từ nay không còn,

Núi sông đã vào chung một bản đồ.

Đề thơ khắc vào núi đá

Trấn giữ miền Tây của nước Việt ta.

Sau bài thơ trên, Lê Lợi còn viết bài thơ thứ hai khắc vào vách núi Hào Tráng bên Chợ Bờ, Hòa Bình.

Lê Lợi trong 5 năm làm vua, có những công lao to lớn. Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Vua hăng hái dấy nghĩa binh đánh dẹp giặc Minh, 20 năm mà thiên hạ đại định. Đến khi lên ngôi, định luật lệ, chế lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, lập quan chức, lập phủ huyện, thu góp sách vở, mở trường học, có thể gọi là có mưu lớn, sáng nghiệp. "
[Nguồn Báo Văn hóa Đời sống]

Video liên quan

Chủ Đề