5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Cường độ tuyệt chủng ở biển theo thời gian. Biểu đồ màu xanh thể hiện phần trăm (con số không chắc chắn) của các chi động vật biển trở nên tuyệt chủng trong một khoảng thời gian bất kỳ. Nó không phản ảnh tất cả các loài sinh vật biển, chỉ đối với những loài đã hóa thạch. Xem Sự kiện tuyệt chủng. (nguồn và thông tin hình)

Sự kiện tuyệt chủng (hay còn được biết đến là tuyệt chủng hàng loạt, sự kiện cấp tuyệt chủng (extinction-level event, ELE), hay khủng hoảng sinh học) là sự suy giảm rõ rệt mức độ phong phú và đa dạng các loài sinh vật lớn (không phải vi sinh vật). Hiện tượng này diễn ra khi tốc độ tuyệt chủng tăng nhanh so với tốc độ hình thành loài. Do phần lớn sinh vật trên Trái Đất là vi sinh vật vốn không để lại nhiều dấu tích trong lịch sử sinh học để nghiên cứu nên tuyệt chủng hàng loạt có thể không thực sự ảnh hưởng lớn đến toàn bộ đa dạng sinh học trên Trái Đất mà chỉ tác động vào nhóm các sinh vật có kích thước quan sát được.[1]

Trong số những loài sinh vật đã từng sống trên Trái Đất, ước tính có 97% đã hoàn toàn tuyệt chủng. Tuy vậy, tốc độ tuyệt chủng diễn ra không đồng nhất trong mọi thời kì. Dựa vào dữ kiện hóa thạch, người ta nhận thấy tốc độ tuyệt chủng trên Trái Đất là từ 2 đến 5 họ động vật cả có xương sống và không xương sống tuyệt chủng sau 1 triệu năm.

Các hóa thạch từ sinh vật biển thường được sử dụng để tính toán tốc độ tuyệt chủng bởi số lượng hóa thạch phong phú và đa dạng xuất hiện trong nhiều lớp thạch quyển so với sinh vật trên cạn.

Từ khi sự sống xuất hiện trên Trái Đất, đã diễn ra nhiều vụ tuyệt chủng hàng loạt với tốc độ tuyệt chủng vượt xa tốc độ trung bình. Vụ tuyệt chủng lớn gần đây nhất, sự kiện tuyệt chủng kỷ Creta-Paleogen, diễn ra 65 triệu năm trước, luôn được quan tâm tới nhiều nhất bởi tính chất đặc biệt của nó. Vụ tuyệt chủng đó đã tiêu diệt hầu hết các loài khủng long vốn là kẻ thống trị trên Trái Đất trong một thời gian rất dài và mở ra cơ hội bước lên vũ đài lịch sử cho các loài động vật có vú, trong đó có con người. Trong khoảng thời gian 540 triệu năm trở lại đây, đã có 5 vụ tuyệt chủng rất lớn (có từ 50% số loài động vật bị tuyệt diệt). Có thể đã có những vụ tuyệt chủng lớn trong Liên đại Thái cổ và Liên đại Nguyên sinh, nhưng do động vật thời kì này chưa có các bộ phận cứng nên không để lại nhiều hóa thạch.

Người ta ước tính có từ 5 tới 20 vụ tuyệt chủng hàng loạt lớn trong khoảng 540 triệu năm gần đây. Rất khó có thể đưa ra được con số chính xác do việc xác định ngưỡng thế nào là tuyệt chủng lớn không thống nhất, cũng như những cứ liệu để xác định mức độ đa dạng sinh học trong các thời kì không giống nhau.

Những vụ đại tuyệt chủng[sửa | sửa mã nguồn]

Hai nhà cổ sinh vật học Jack Sepkoski và David M. Raup trong một bài báo năm 1982 đã xác định 5 vụ đại tuyệt chủng nổi bật và được đông đảo giới khoa học tán thành. Năm sự kiện tuyệt chủng ấy gồm: Cuối kỷ Ordovic, kỷ Devon muộn, Cuối kỷ Permi, Cuối kỷ Triat, Cuối kỷ Creta.[2][3]

Cụ thể, 5 sự kiện đại tuyệt chủng gồm có:

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
Thiên thạch va chạm cuối kỷ Creta đã tiêu diệt loài khủng long
  1. Cuối kỷ Creta (tuyệt chủng K-T) xảy ra 65,5 triệu năm trước đánh dấu sự chuyển tiếp từ kỷ Creta sang kỷ Paleogen. Khoảng 17% số họ, 50% số chi và 75% số loài đã tuyệt chủng sau biến cố này.[4]. Sự kiện này đánh dấu chấm dứt thời kì thống trị của khủng long, mở ra con đường cho sự phát triển của động vật có vú và chim trở thành những sinh vật thống trị mặt đất. Nó cũng tiêu diệt một lượng lớn các loài sinh vật cố định ở biển (như san hô, chân ngỗng...) khiến số lượng các loài này giảm xuống còn 33%. Tuyệt chủng K-T là một vụ tuyệt chủng không đồng đều. Có những sinh vật bị tuyệt chủng hoàn toàn, một số khác chịu những ảnh hưởng nặng nề và một số lại hầu như không bị ảnh hưởng đáng kể.
  2. Sự kiện tuyệt chủng Kỷ Trias–Jura, xảy ra 205 triệu năm về trước đánh dấu bước chuyển từ kỷ Triat sang kỷ Jura. Khoảng 23% số lượng họ và 48% số chi (bao gồm 20% số họ và 55% số chi sinh vật biển) tuyệt chủng.[4] Trên mặt đất, phần lớn các sinh vật thuộc nhóm bò sát thuộc phụ lớp thằn lằn cổ (archosauria) ngoại trừ khủng long đều tuyệt chủng. Bên cạnh đó là sự biến mất của hầu hết sinh vật thuộc nhóm bò sát thuộc bộ thằn lằn cung thú (therapsida) và phần lớn động vật lưỡng cư. Chính những nhân tố này đã tạo ra cơ hội có một không hai cho khủng long giành vị trí thống trị trên đất liền suốt kỷ Jura và kỷ Creta sau đó. Nhóm bò sát thuộc phụ lớp thằn lằn cổ sống dưới nước, tổ tiên của loài cá sấu ngày nay, tiếp tục thống trị các vùng nước ngọt và bò sát thuộc nhóm sọ hai cung (Diapsida) không bao gồm các loài archosaur (tức là các loài thuộc nhóm thằn lằn cổ rắn (Sauropterygia), thằn lằn cá (Ichthyopterygia) v.v) thống trị biển cả. Một nhánh của lưỡng cư là Temnospondyl gồm một số loài lưỡng cư cỡ lớn cũng vẫn tồn tại tiếp cho đến kỷ Creta ở Australia.
  3. Sự kiện tuyệt chủng kỷ Permi - kỷ Triat, xảy ra 251 triệu năm về trước giữa 2 kỷ Permi và kỷ Triat. Đây là vụ tuyệt chủng khủng khiếp nhất trong lịch sử sinh học, giết chết 57% số họ và 83% số chi (trong đó có 53% số họ và 84% số chi sinh vật biển). Sự kiện này đã tiêu diệt hoàn toàn khỏi Trái Đất 96% số loài sinh vật biển và 70% số loài sống trên cạn, bao gồm cả động vật có xương sống, côn trùng và thực vật.[4] Nó đã có tác động mạnh mẽ đến quá trình tiến hóa trên Trái Đất: trên Mặt đất, động vật thuộc nhóm bò sát dạng thú (Synapsida) đánh mất ưu thế. Cần đến 30 triệu năm để các nhóm sinh vật có xương sống phục hồi số lượng và sự đa dạng[5]. Chỗ trống của nhóm Synapsida sau đó được thay thế bởi nhóm thằn lằn cổ Archosauria. Ở biển, nhóm động vật sống cố định đã giảm từ 67% xuống còn 50% trong tổng số động vật biển. Thực sự thì đối với nhóm sinh vật biển, thời kì cuối kỷ Permi là một thời kì thực sự khó khăn.
  4. Sự kiện tuyệt chủng Devon muộn, xảy ra cách đây 360 đến 375 triệu năm, ngay trước thời điểm chuyển giao giữa kỷ Devon và kỷ Cacbon. Cuối tầng Frasne, một chuỗi dài các vụ tuyệt chủng liên tiếp đã tiêu diệt 19% số họ, 50% số chi và 70% số loài.[4] Có những chứng cứ cho thấy đây là một chuỗi các vụ tuyệt chủng liên tiếp kéo dài có thể lên đến 20 triệu năm.
  5. Sự kiện tuyệt chủng Ordovic–Silur, xảy ra 440 đến 450 triệu năm về trước đánh dấu ranh giới giữa 2 kỷ Ordovic và kỷ Silur. Đã có 2 vụ tuyệt chủng liên tiếp trong giai đoạn này, tiêu diệt 17% số họ, 57% số chi.[4] Đây được đánh giá là vụ tuyệt chủng lớn thứ hai trong lịch sử Trái Đất nếu đánh giá theo tỉ lệ số chi bị tiêu diệt.

Những cứ liệu hóa thạch càng nhiều tuổi, càng khó để nghiên cứu và phân tích chúng vì các nguyên nhân sau:

  • Những hóa thạch càng cổ thì càng nằm sâu dưới các lớp đá.
  • Việc tính niên đại các hóa thạch càng cổ thì càng khó chính xác.
  • Các tầng đá nhiều hóa thạch được nghiên cứu kĩ lưỡng hơn, khiến cho có những khoảng trống trong lịch sử Trái Đất không được nghiên cứu.
  • Môi trường hỗn loạn thời tiền sử khiến cho quá trình tích tụ và trầm lắng bị xáo trộn.
  • Mức độ bảo tồn của hóa thạch thay đổi tùy nơi, nhưng có vẻ hóa thạch các sinh vật biển được bảo tồn tốt hơn các sinh vật trên cạn.[6]

Có giả thuyết cho rằng sự thay đổi rõ rệt của đa dạng sinh vật biển mà ta quan sát được từ các cứ liệu hóa thạch là không đáng tin cậy do độ phong phú sinh vật được chúng ta đưa ra ở từng thời kì lại phụ thuộc hoàn toàn vào số lượng các mẫu đá thu được ở thời kì đó.[7] Mặc dù vậy, các phân tích xác suất chỉ ra rằng sự thay đổi trong các hóa thạch sinh vật biển chỉ chiếm 50% chứng cứ về sự tuyệt chủng. Các cứ liệu khác như sự gia tăng đột biến các loài nấm (phát triển mạnh trên xác của động thực vật) cũng là một bằng chứng cho thấy những vụ tuyệt chủng hàng loạt đã thực sự xảy ra. Một số lượng lớn các tầng đá lộ ra ở Tây Âu đã cho thấy nhiều sự kiện thời tiền sử được giải thích dưới con mắt sinh học luôn xảy ra đúng như kết quả của việc lấy mẫu[8]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ doi:10.1371/journal.pbio.0020272
    Hoàn thành chú thích này
  2. ^ Raup, D. & Sepkoski, J. (1982). “Mass extinctions in the marine fossil record”. Science. 215: 1501–1503. doi:10.1126/science.215.4539.1501. PMID 17788674.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  3. ^ Morell, V., and Lanting, F., 1999. "The Sixth Extintion," National Geographic Magazine, February.
  4. ^ a b c d e “extinction”. Math.ucr.edu. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2008.
  5. ^ Sahney S & Benton MJ (2008). “Recovery from the most profound mass extinction of all time”. Proceedings of the Royal Society: Biological. 275 (759).
  6. ^ Sole, R. V., and Newman, M., 2002. "Extinctions and Biodiversity in the Fossil Record - Volume Two, The Earth system: biological and ecological dimensions of global environment change" pp. 297-391, Encyclopedia of Global Enviromental Change John Wilely & Sons.
  7. ^ A. Smith & A. McGowan (2005). “Cyclicity in the fossil record mirrors rock outcrop area”. Biology Letters. 1 (4): 443–445. doi:10.1098/rsbl.2005.0345.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  8. ^ ANDREW B. SMITH, ALISTAIR J. McGOWAN (2007). “The Shape Of The Phanerozoic Marine Palaeodiversity Curve: How Much Can Be Predicted From The Sedimentary Rock Record Of Western Europe?”. Palaeontology. 50 (4): 765–774. doi:10.1111/j.1475-4983.2007.00693.x.

Voi rừng châu Phi nghiêm túc có nguy cơ tuyệt chủng Amur Leopard Panthera Pardus directionalis cực kỳ nguy hiểm ở Rhino Diceros Bicornis nghiêm túc bị đe dọa Critically Endangered Orangutan Pongo abelii, Pongo pygmaeus Critically Endangered Saola Pseudoryx nghetinhensis Critically Endangered Sumatran Elephant Elephas maximus sumatranus Critically Endangered Sumatran Orangutan Pongo abelii Critically Endangered Sumatran Rhino Dicerorhinus sumatrensis Critically Endangered Sunda Tiger Panthera tigris sondaica Critically Endangered Vaquita Phocoena sinus Critically Endangered Western Lowland Gorilla Gorilla Gorilla Gorilla nghiêm trọng có nguy cơ tuyệt chủng Yangtze Finless Neophocaena Asiaeorientalis ssp. Voi Loxodonta Châu Phi Châu Phi Châu Phi gây nguy hiểm đến Châu Phi chó Lycaon hình ảnh người Áo Áo Áo Áo Pan troglodytes Endangered Fin Whale Balaenoptera physalus Endangered Galápagos Penguin Spheniscus mendiculus Endangered Ganges River Dolphin Platanista gangetica gangetica Endangered Green Turtle Chelonia mydas Endangered Hector's Dolphin Cephalorhynchus hectori Endangered Humphead Wrasse Cheilinus undulatus Endangered Indian Elephant Elephas maximus indicus Endangered Indus River Dolphin Platanista minor Endangered Irrawaddy Dolphin Orcaella Brevirostris có nguy cơ tuyệt chủng Bướm Danaus Plexippus đang gặp nguy hiểm Đại Tây Dương phải cá voi Eubalaena glacialis đáng nguy hiểm bị gấu trúc đỏ bị đe dọa đến những con sư tử biển Zalophus wollebaeki đang đe dọa rùa biển Shark Rhincodon Typus gây nguy hiểm cho Bigeye Tuna Thunnus Obesus Khỉ nhện đen dễ bị tổn thương Atele Paniscus dễ bị tổn thương

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
Ridley của Kemp là những con rùa biển nhỏ nhất thế giới và cũng là loài có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất. Erich Schlegel / International_ni / CorbisErich Schlegel / International_NI / Corbis

Ốc cây Oahu (Achatinella sp.)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Gary Braasch / Corbis)

Khi người Polynesia đến Quần đảo Hawaii không có người ở cách đây hàng ngàn năm, họ đã tìm thấy một loạt các loài ốc cây đầy màu sắc, mỗi inch dài hơn một inch, trên đảo Oahu. Những con ốc nhỏ đó có 41 loài trong chi Achatinella, giờ đây chỉ có thể được tìm thấy trên các rặng núi cao của hòn đảo hai núi lửa đã tuyệt chủng. Tất cả các con ốc trong chi này được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng; Nhiều người được cho là đã bị tuyệt chủng. Số lượng của chúng bị suy giảm bởi sự kết hợp của các yếu tố, bao gồm các nhà sưu tập muốn có vỏ, giới thiệu các loài thực vật và động vật không bản địa, bao gồm cả chuột và mất thảm thực vật bản địa, con ốc sên gặm cỏ trên lá cây bản địa. Tuy nhiên, một dự án bảo tồn tại Đại học Hawaii đang sinh sản chín loài ốc Achatinella trong phòng thí nghiệm trong nỗ lực cứu các sinh vật.

Quần đảo Hawaii, với hàng trăm loài thực vật và động vật có nguy cơ tuyệt chủng, thường được gọi là thủ đô loài có nguy cơ tuyệt chủng của thế giới. Vị trí từ xa của hòn đảo đã dẫn đến sự phát triển của hàng ngàn loài sống ở nơi khác trên thế giới. Tuy nhiên, sự đặc biệt đó gây ra một mối nguy hiểm bổ sung, bởi vì một khi một loài biến mất khỏi Hawaii, nó thường biến mất mãi mãi. - SZ

Sói đỏ (Canis Rufus)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Layne Kennedy / Corbis)

Hơn 100 con sói đỏ đi lang thang ở vùng đất hoang dã quốc gia sông ở ven biển Bắc Carolina. Điều đó có vẻ không giống như nhiều người, nhưng nó là kết quả của một chương trình giới thiệu lại thành công. Vào đầu những năm 1980, chỉ có một vài con sói vẫn còn trong các tội phạm hoang dã của việc săn bắn và mất môi trường sống, và các nhà khoa học đã chiếm được 17 người cuối cùng, sinh sản chúng trong điều kiện nuôi nhốt và sau đó tái tạo nơi ẩn náu. Nhưng bây giờ, có một mối đe dọa mới đối với những con sói: biến đổi khí hậu và sự gia tăng mực nước biển có thể nhấn chìm ngôi nhà ven biển thấp. Nhưng các nhà khoa học của Alligator River aren từ bỏ. Họ sử dụng các kỹ thuật phục hồi đất ngập nước, bao gồm các biện pháp đơn giản như trồng cây ổn định đất, để bảo vệ nơi ẩn náu khỏi thủy triều cao hơn và bão mạnh hơn và cho khu vực động vật, bao gồm cả những con sói, thời gian để di chuyển xa hơn vào đất liền khi bờ biển thay đổi. - SZ

Rùa biển Kemp Rid Ridley

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Erich Schlegel / International_ni / Corbis)

Những con rùa biển nhỏ nhất thế giới, Ridley Kemp cũng là người có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất. Năm 1947, 42.000 con rùa này đã được quay làm tổ trên một bãi biển gần Rancho Nuevo, Mexico. Bộ phim đó cũng bắt được mọi người đào lên tổ để thu thập trứng, số lượng hơn 100 mỗi tổ; Trứng được ăn và được coi là thuốc kích thích tình dục. Ở Hoa Kỳ, tất cả sáu loài rùa biển được liệt kê là bị đe dọa hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Cũng như các loài khác, nhiều Ridley Kemp đã bị giết sau khi bị mắc kẹt trong dụng cụ đánh cá khi chúng đi lên và xuống bờ biển phía đông. Đến năm 1985, chỉ có 702 tổ rùa được tìm thấy trong toàn bộ phạm vi làm tổ của chúng, kéo dài đến Texas.

Các quan chức ở Hoa Kỳ và Mexico đã làm việc để bảo vệ Kemp, Ridleys trong nhiều thập kỷ. Hiện tại có một hệ thống dự trữ, bao gồm Bãi biển Rancho Nuevo, nơi rùa có thể làm tổ một cách an toàn. Mọi người ở xa như Massachusetts giúp đỡ bằng cách giải cứu những con rùa rẽ sai khi di chuyển về phía nam và bị mắc kẹt trong Vịnh Cape Cod. Những nỗ lực đó đã chứng kiến ​​thành công, một người ước tính 8.000 con rùa biển Kemp Rid Ridley được lồng vào năm 2009. - SZ

California Condor (Gymnogyps Californianus)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Momatiuk - Eastcott / Corbis)

Với sải cánh dài chín rưỡi, lông màu đen sâu và cái đầu màu hồng trần, California Condor khá là một cảnh tượng. Trước khi những người định cư vội vã vào California vào giữa thế kỷ 19, bị dụ dỗ bởi phát hiện vàng, những condors đã bay lên một cách yên bình qua bầu trời. Nhưng sau đó mọi người bắt đầu bắn chúng và đánh cắp trứng của họ. Những con chim mà người sói giết chết hoàn toàn thường chết vì ngộ độc chì vì ăn những mảnh đạn trong xác mà chúng nhặt rác. Năm 1985, khi chỉ có 22 con chim sống sót, Dịch vụ Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ đã chiếm được chín con cuối cùng trong tự nhiên và đưa chúng vào một chương trình sinh sản. Bảy năm sau, các bộ phận từ chương trình đó đã được giới thiệu lại vào California và chương trình đó đã được mở rộng sang hai địa điểm phát hành nữa ở tiểu bang đó cũng như các trang web ở Arizona và Baja California, Mexico. Khoảng 150 con chim đã được thả vào tự nhiên, và với nhân giống bình thường, dân số hiện có số lượng hơn 300 con chim. - SZ

Đảo Vancouver Marmot (Marmota Vancouverensis)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Jared Hobbs / All Canada Photos / Corbis)

Như tên gọi của nó, động vật ăn cỏ lông xù này, có kích thước bằng một con mèo nhà lớn, chỉ được tìm thấy trên đảo Vancouver ở British Columbia, Canada. Các thuộc địa nhỏ của một đến ba đơn vị gia đình sống trong các khu rừng cao độ trên đảo. Không ai chắc chắn có bao nhiêu marmots trước khi đếm bắt đầu vào năm 1979, nhưng số lượng giảm từ mức cao vài trăm vào giữa những năm 1980 xuống chỉ còn 35, tất cả ở một điểm, vào năm 2004.

Các nhà nghiên cứu vẫn đang nghiên cứu những lý do đằng sau sự suy giảm của Marmot, nhưng việc cắt xén các khu rừng trên đảo có thể có một số ảnh hưởng. Nếu không có vỏ cây, những con marmot có thể trở nên dễ bị tổn thương hơn với sự săn mồi của chim, sói, báo sư tử hoặc sự kết hợp của ba con. Một chương trình sinh sản bị giam cầm đã có một số thành công, và hàng chục Marmots đã được phát hành trên đảo Vancouver từ năm 2003. Tuy nhiên, vẫn còn một số lo lắng, vì một nghiên cứu gần đây cho thấy Marmots sinh ra thậm chí còn dễ bị tổn thương hơn với Đại bàng vàng so với của họ Anh em hoang dã. - SZ

Bass biển khổng lồ (Stereolepis Gigas)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Ralph A. Clevenger / Corbis)

Ở vùng biển dọc theo các rạn san hô đá ngoài khơi bờ biển phía tây, từ Bắc California đến Baja và Vịnh California, bơi những con cá vược khổng lồ. Những kẻ săn mồi hàng đầu này, có thể đạt chiều dài bảy feet và trọng lượng từ 500 pounds trở lên, sống gần giường tảo bẹ và ăn những con cá nhỏ hơn như cá cơm và cá mòi, cùng với cua, tôm hùm gai và thậm chí là cá mập nhỏ. Ngư dân thương mại bắt đầu kéo cá vược khổng lồ ra khỏi nước với các đường tay vào năm 1870, nhưng sau khi họ chuyển sang lưới mang, họ nhanh chóng lái xe xuống số cá: nghề cá đạt đỉnh vào những năm 1930 vào khoảng một triệu pound cá vược khổng lồ bị bắt gặp một năm. Đến năm 1980, ngư dân bắt được ít hơn 40.000 pound cá.

Năm 1981, California hạn chế đánh cá cá vược khổng lồ trong vùng biển của nó. Mặc dù không có dữ liệu cứng nào cho thấy dân số cá đã phục hồi, các thợ lặn Scuba nói rằng có nhiều con cá trong vùng nước tại các điểm lặn nổi tiếng ngoài khơi La Jolla và Anacapa và Catalina. Mexico, tuy nhiên, là một câu chuyện khác, khi câu cá bass biển khổng lồ tiếp tục ở đó không bị cản trở. - SZ

Treefrog của Rabb Rabb (Ecnomiohyla Rabborum)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Brad Wilson / Associated Press)

Nấm chytrid đã được tìm thấy trên ít nhất 287 loài ếch ở 37 quốc gia trên thế giới và bị nghi là một nguyên nhân chính gây ra bệnh lưỡng cư. Trong số các nạn nhân của nó là Rabb Rabb Limfed Treefrog, nơi cư ngụ trong tán rừng nhiệt đới ở trung tâm Panama. Với đôi chân có màng lớn của nó, con ếch có thể lướt qua, chân tay vươn ra, từ những nhánh cao an toàn xuống đất. Loài này đã được phát hiện cho đến cuối năm 2005, khi một nhóm các nhà khoa học đến thăm khu vực để thu thập ếch và cứu chúng trong điều kiện nuôi nhốt trước khi nấm Chytrid đến. Chytrid đã được phát hiện trong khu vực vào năm sau, và cá nhân hoang dã được biết đến cuối cùng, một người đàn ông, đã được nghe vào tháng 12 năm 2007. Các nhà nghiên cứu tại Zoo Atlanta và Vườn bách thảo Atlanta đã cố gắng nhân giống ếch nhưng không thành công. Tính đến tháng 4 năm 2011, chỉ có một người đàn ông đơn độc sống sót tại Vườn bách thảo. - SZ

Pygmy Raccoon (Procyon Pygmaeus)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Hình ảnh Roy Toft / Getty)

Những con gấu trúc Pygmy có thể là một cảnh tượng phổ biến trong số các khu rừng ngập mặn ở phía tây bắc của Cozumel, một hòn đảo ngoài khơi Bán đảo Yucatán ở Mexico. Tuy nhiên, họ không sống ở đâu trên thế giới và có khả năng có ít hơn 250 động vật trưởng thành. Ngôi nhà trên đảo của họ đang ngày càng phát triển cho du lịch, và các nhà khoa học lo lắng rằng môi trường sống của gấu trúc có thể trở nên phân mảnh hơn bởi các con đường và các khách sạn và sân golf có thể sử dụng hết lượng nước ngọt cần thiết bởi các động vật đảo. Mèo hoang và chó cũng là một mối đe dọa; Họ mang theo bệnh tật và làm con mồi trên gấu trúc. Nhưng mối nguy hiểm lớn nhất có thể là một điều mà con người có ít quyền kiểm soát đối với người Hurricanes. Một cơn bão lớn có thể quét sạch tới 60 phần trăm dân số gấu trúc trong một cú đánh, theo một nghiên cứu về hai cơn bão quét qua khu vực năm 2005. - SZ

Staghorn Coral (Acropora Cervicornis)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Frans Lanting / Corbis)

Trong 30 năm qua, Caribbean đã mất 80 phần trăm san hô. Trong số những cú đánh mạnh nhất là san hô Staghorn, một loài chịu trách nhiệm xây dựng phần lớn rạn san hô ở vùng nước nông quanh Florida Keys, Bahamas, Quần đảo Caribbean và Venezuela. Kể từ năm 1980, các quần thể của san hô phân nhánh đã giảm tới 98 phần trăm ở một số khu vực.

Các mối đe dọa đối với san hô staghorn là giống nhau ảnh hưởng đến san hô trên toàn thế giới. Chất lượng nước kém, do dòng chảy của các chất ô nhiễm từ đất đai, giống bệnh san hô. . Việc đốt cháy nhiên liệu hóa thạch tràn lan đã dẫn đến việc đại dương hấp thụ nhiều carbon dioxide hơn từ khí quyển. Nhiệt độ nước đã tăng 1,3 độ Fahrenheit kể từ cuối thế kỷ 19, và tính axit của đại dương đã tăng 30 % kể từ khi bắt đầu Cách mạng công nghiệp. Do đó, san hô đang tẩy trắng và đấu tranh để gửi các exoskeleton canxi-carbonate hình thành các rạn san hô. Nancy Knowlton, một nhà sinh vật học rạn san hô tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Smithsonian, so sánh sự hòa tan của các exoskeletons với răng ở Coca-Cola.

Trong một trong những chuyến đi hàng năm của Knowlton, đến Bocas del Toro, Panama, để nghiên cứu một vụ san hô hàng loạt vào năm 2009, cô đã chia sẻ dự báo ảm đạm của mình: Nếu chúng tôi không làm gì đó, chúng tôi có thể mất các rạn san hô như chúng tôi biết vào năm 2050. - mg

Franklin từ Bumblebee (Bombus Franklini)

5 loài có nguy cơ tuyệt chủng hàng đầu ở Hoa Kỳ năm 2022
(Robbin Thorp / Associated Press)

Franklin xông Bumblebee sống trong một đoạn đường hẹp, dài 190 dặm Nam Oregon và Bắc California, giữa các dãy núi Sierra-Cascade và Bờ biển. Dân số bắt đầu suy giảm vào cuối những năm 1990, và không ai phát hiện ra Bumblebee, được đặt theo tên của nhà côn trùng học đầu thế kỷ 20 Henry J. Franklin, kể từ năm 2006.

Robbin Thorp, một nhà côn trùng học tại Đại học California, Davis cho biết sự suy giảm của Franklin, Bumblebee có thể là do sự lây lan của một căn bệnh được đưa ra bởi Bumblebees được nhập khẩu từ châu Âu đến thụ phấn cho cây cà chua, ớt và các nhà máy khác. Quần thể của ba loài ong vò vẽ liên quan chặt chẽ khác cũng đang suy giảm, có lẽ vì lý do tương tự. Bumblebees không phải là những con ong có nguy cơ tuyệt chủng duy nhất ở Bắc Mỹ. Trong năm năm qua, những người nuôi ong đã mất tới 90 phần trăm các thuộc địa ong của họ vào rối loạn sụp đổ thuộc địa, một hiện tượng bí ẩn mà nguyên nhân chưa được biết đến; Thuốc trừ sâu, mầm bệnh và căng thẳng là thủ phạm có thể.

Nhưng Franklin xông Bumblebee có thể trở lại. Nếu ít nhất một số cá nhân miễn dịch sống sót sau căn bệnh này, họ có thể tái sinh khu vực này, Thorp nói. Mùa hè này, anh dự định tìm kiếm những người sống sót trong lãnh thổ Bumblebee. - Ew

Loài cá có nguy cơ tuyệt chủng

Video được Đề xuất

5 động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất là gì?

10 động vật có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất thế giới..
Tê giác Javan.....
Leopard Amur.....
Hổ đảo Sunda.....
Khỉ đột núi.....
Tapanuli đười ươi.....
Yangtze finless porpoise.....
Tê giác đen.....
Voi rừng châu Phi ..

Các loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Hoa Kỳ là gì?

1. Florida Panther.Florida Panther đã được liệt kê là một loài có nguy cơ tuyệt chủng kể từ năm 1967 và hiện chỉ sống trong 5% phạm vi trước đây.Panther này được sử dụng để đi lang thang nhiều ở phía đông nam Hoa Kỳ nhưng hiện chỉ được tìm thấy ở miền nam Florida.Florida Panther. The Florida panther has been listed as an endangered species since 1967 and now lives in just 5% of its former range. This panther used to roam much of the southeastern U.S. but is now only found in southern Florida.

Có bao nhiêu loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Mỹ?

Liên bang Hoa Kỳ có nguy cơ tuyệt chủng và đe dọa các loài theo năm dương lịch.

Có bao nhiêu loài có nguy cơ tuyệt chủng ở Mỹ 2022?

Do đó, tính đến năm 2022, trong cơ sở dữ liệu USFWS, 1.092 loài động vật được liệt kê là có nguy cơ tuyệt chủng.USFWS, với sự giúp đỡ của Đạo luật ESA, đã mang lại nhiều loài từng được coi là có nguy cơ tuyệt chủng từ bờ vực tuyệt chủng.1,092 species of animals are listed as endangered. The USFWS, with the help of the ESA Act, has brought back many species once considered endangered from the brink of extinction.