Ho gà theo đông y gọi là gì năm 2024

Ho gà là một bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn Hemophillus periusis gây ra, rất thường gặp ở trẻ em trong mùa đông xuân.

Y học cổ truyền gọi ho gà là bách nhật khái, sinh khái (ho cơn). Nguyên nhân do tà khí qua miệng mũi vào phế, phế khí không thông, nghịch lên gây ho, bên trong đờm nhiệt ẩn nấp ở phế, gây nên các cơn ho kịch liệt. Bệnh kéo dài ảnh hưởng đến phế khí, phế âm và dễ sinh ra các biến chứng.

Ho gà theo đông y gọi là gì năm 2024

Bách bộ là vị thuốc trong si rô ô mai rễ dâu trị ho gà.

Hiện nay nhờ có vắc-xin nên bệnh ít mắc nhưng không hết hẳn. Đông y có những bài thuốc phòng và trị bệnh ho gà sau:

Bột hoa đu đủ

Hoa đu đủ đực khô 20g, trần bì 20g, vỏ rễ dâu 20g, bạch phàn 12g, bách bộ 12g.

Hoa đu đủ sao vàng, rễ dâu tẩm mật sao giòn. Các vị sấy khô tán bột, đóng gói 4g/túi, đựng trong hộp kín.

Trẻ em 1 - 5 tuổi, mỗi lần 1/4 - 1 gói; trẻ từ 5 - 10 tuổi, mỗi lần uống từ 1 - 2 gói. Ngày uống 3 lần. Tác dụng mát phổi trừ đờm.

Chữa chứng ho gà có sốt, ho nhiều đờm dãi. Kiêng kỵ: không ăn các chất dầu mỡ, cay nóng, tanh.

Cao ho gà

Lá chanh 10g, cỏ gà 10g, gừng tươi 5g, củ sả 5g, lá táo 10g, cỏ sữa nhỏ lá 10g, vỏ rễ dâu 10g, hoa đu đủ đực 5g.

Các dược liệu tươi rửa sạch nấu thành cao, cho đường nấu thành siro. Cho vào lọ nút kín. Liều lượng: dưới 5 tuổi mỗi lần uống 1 thìa cà phê; trên 5 tuổi, mỗi lần dùng 2 thìa cà phê. Ngày uống 2 lần pha với nước ấm.

gây ra. Các triệu chứng ban đầu của nhiễm trùng đường hô hấp trên không đặc hiệu, sau đó là ho dữ dội hoặc kiểu co thắt, thường kết thúc bằng thở rít, âm độ cao, như tiếng gà (cơn ho gà). Chẩn đoán là bằng nuôi cấy dịch mũi họng, xét nghiệm PCR và huyết thanh học. Điều trị bằng kháng sinh macrolide.

Ho gà xuất hiện trên toàn thế giới. Tỷ lệ mắc bệnh ở Mỹ chu kỳ mỗi 3 đến 5 năm. Ho gà chỉ xảy ra ở người; không có vật chủ động vật.

Sự lây truyền chủ yếu qua các giọt dịch tiết đường hô hấp có chứa B. pertussis (cầu trực khuẩn nhỏ, không di động, gram âm) từ những bệnh nhân bị nhiễm, đặc biệt là trong giai đoạn ủ bệnh và giai đoạn khởi phát. Nhiễm bệnh rất dễ lây và gây bệnh ở ≥ 80% trẻ em có tiếp xúc gần. Việc truyền qua tiếp xúc với các vật bị nhiễm là hiếm. Bệnh nhân thường không lây sau tuần thứ 3 của giai đoạn toàn phát.

Ho gà bệnh có thể ngăn ngừa bằng vắc-xin lại đang có xu hướng gia tăng. Ở Mỹ, tỷ lệ trường hợp trong những năm 1980 đã ở mức thấp nhất mọi thời đại khoảng 1/100.000 dân, vào năm 2014, tăng lên khoảng 10/100.000. Báo cáo giám sát năm 2019 của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) cho biết tỷ lệ mắc bệnh là 5,7/100.000 (). Sự gia tăng từ những năm 1980 là do

  • Đáp ứng miễn dịch ở người trưởng thành cà trẻ vị thành niên được chủng ngừa trước đây.
  • Các bậc phụ huynh từ chối tiêm vắcxin cho trẻ (xem Lưỡng lự tiêm vắc xin)

Những bệnh nhân không được bảo vệ như vậy có thể bị bệnh; hơn nữa, thanh thiếu niên và người lớn không được bảo vệ là nguồn dự trữ quan trọng của B. pertussis và do đó thường là nguồn lây nhiễm cho trẻ sơ sinh < 1 tuổi không được bảo vệ (những trẻ có tỷ lệ mắc hàng năm tăng cao nhất và tỷ lệ tử vong cao nhất). Ngoài ra, độc lực của các chủng dịch có thể đang gia tăng.

Tại Mỹ năm 2019, có 18.617 trường hợp mắc ho gà và 7 trường hợp tử vong. Tỷ lệ trên 100.000 là cao nhất ở trẻ < 6 tháng tuổi (76,5) và 4 trong số 7 trường hợp tử vong xảy ra ở trẻ < 1 tuổi (). Ho gà cũng nghiêm trọng ở người cao tuổi.

Lần nhiễm đầu tiên không tạo ra miễn dịch tự nhiên suốt đời, nhưng các lần thứ 2 và sau tiêm vắc-xin ở trẻ vị thành niên và người lớn có khiếm khuyết về miễn dịch thường nhẹ và thường không được nhận ra.

Các biến chứng hô hấp, bao gồm ngạt thở ở trẻ sơ sinh là phổ biến nhất. Viêm tai giữa xảy ra thường xuyên. Viêm phế quản phổi (phổ biến ở người lớn tuổi) có thể gây tử vong ở mọi lứa tuổi.

Động kinh thường xảy ra ở trẻ nhỏ nhưng hiếm gặp ở trẻ lớn hơn.

Xuất huyết não, mắt, da và màng nhầy có thể là hậu quả của các cơn kịch phát và hậu quả gây ra chứng khô miệng. Xuất huyết não, phù não và viêm não có chứa chất độc có thể gây tê liệt, khiếm khuyết trí tuệ (rối loạn tâm thần) hoặc rối loạn thần kinh khác.

Thoát vị rốn và trực tràng đôi khi xảy ra.

Bệnh này, do B. parapertussis, có thể không thể phân biệt được về mặt lâm sàng với bệnh ho gà nhưng thường nhẹ hơn và ít gây tử vong hơn.

  1. 1. National Center for Immunization and Respiratory Diseases Division of Bacterial Diseases: Báo cáo giám sát ho gà năm 2019. Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh tật, năm 2021.

Các triệu chứng và dấu hiệu của ho gà

Thời kỳ ủ bệnh trung bình từ 7 đến 14 ngày (tối đa 3 tuần). B. pertussis xâm nhập niêm mạc đường hô hấp, làm tăng tiết chất nhầy, ban đầu mỏng và sau đó là nhớt, dai và dính. Bệnh không biến chứng kéo dài khoảng 6 đến 10 tuần và bao gồm 3 giai đoạn:

  • Khởi phát
  • Toàn phát
  • Hồi phục

Giai đoạn khởi phát bắt đầu một cách mạnh mẽ, thường là hắt hơi, chảy nước mắt, hoặc sổ mũi; chán ăn; bơ phờ; ho khan về đêm dần dần ho cả ngày. Có thể khàn tiếng. Sốt là rất hiếm.

Sau 10 đến 14 ngày, giai đoạn toàn phát bắt đầu với sự gia tăng mức độ nghiêm trọng và tần suất ho. Lặp đi lặp lại ≥ 5 cơn ho nặng xuất hiện liên tiếp trong 1 nhịp thở ra, tiếp theo đó là tiếng ho gà- nhanh, hít sâu. Chất nhầy nhớt quánh dính có thể bị bắn ra hoặc bong bóng ra khỏi mũi trong hoặc sau thời kỳ toàn phát. Nôn mửa là đặc trưng. Ở trẻ sơ sinh, chứng nghẹt thở (có hoặc không có xanh tím) có thể phổ biến hơn nhiều.

Triệu chứng giảm đi khi giai đoạn hồi phục bắt đầu, thường là trong vòng 4 tuần. Thời gian trung bình của bệnh là khoảng 7 tuần (khoảng 3 tuần đến 3 tháng hoặc nhiều hơn). Ho có thể tái phát trong nhiều tháng, thường gây ra ở đường hô hấp còn nhạy cảm do kích ứng từ nhiễm trùng đường hô hấp trên.

Chẩn đoán ho gà

  • Nuôi cấy dịch mũi họng, xét nghiệm kháng thể huỳnh quang trực tiếp và xét nghiệm phản ứng chuỗi polymerase (PCR)
  • Xét nghiệm huyết thanh học

Giai đoạn xuất tiết thường khó phân biệt với viêm phế quản hoặc cúm. Nhiễm Adenovirus và Lao cũng nên được xem xét.

Nuôi cấy dịch hầu họng B. pertussis dương tính 80 đến 90% trường hợp trong giai đoạn xuất tiết và toàn phát sớm. Vì cần phải có phương tiện đặc biệt và cần ủ kéo dài, phòng thí nghiệm cần được thông báo rằng nghi ngờ là ho gà.

Xét nghiệm kháng thể huỳnh quang đặc hiệu của các dịch mũi họng được chẩn đoán chính xác ho gà nhưng không nhạy cảm như nuôi cấy. Xét nghiệm huyết thanh giai đoạn cấp tính và giai đoạn hồi phục.

Xét nghiệm PCR của các mẫu từ mũi họng là xét nghiệm nhạy và tốt nhất.

Số lượng bạch cầu thường là từ 15.000 đến 20.000/mcL (15 and 20 × 109/L) nhưng có thể là bình thường hoặc cao đến 60.000/mcL (60 × 109/L), thường với 60 đến 80% lymphocytes nhỏ.

Phó ho gà được phân biệt bằng nuôi cấy hoặc kỹ thuật kháng thể huỳnh quang.

Điều trị ho gà

  • Chăm sóc hỗ trợ
  • Erythromycin hoặc azithromycin

Dành cho trẻ sơ sinh suy hô nặng. Sự cách ly được tiếp tục cho đến khi kháng sinh sử dụng trong 5 ngày.

Ở trẻ sơ sinh, hút dịch để loại bỏ chất nhầy dư thừa từ cổ họng có thể là biện pháp hỗ trợ. Oxygen và mở khí quản hoặc đặt nội khí quản qua đường mũi họng đôi khi là cần thiết. Thuốc giảm đau, thuốc giảm ho và thuốc an thần nhẹ có giá trị rất thấp.

Vì bất kỳ sự xáo trộn nào có thể gây ra ho đột ngột với tình trạng thiếu oxy, trẻ sơ sinh nặng nên được giữ trong một căn phòng tối, yên tĩnh và bị quấy rầy càng ít càng tốt.

Bệnh nhân được điều trị tại nhà cần được cách ly, đặc biệt là từ những trẻ nhạy cảm, trong ít nhất 4 tuần kể từ khi bắt đầu điều trị và cho đến khi các triệu chứng giảm.

Thuốc kháng sinh trong giai đoạn xuất tiết có thể cải thiện bệnh. Sau khi toàn phát, kháng sinh thường không có tác dụng lâm sàng nhưng được khuyến cáo để hạn chế sự lây lan.

Thuốc ưu tiên là

  • Erythromycin 10 đến 12,5 mg/kg uống mỗi 6 giờ (tối đa 2 g/ngày) trong 14 ngày
  • Azithromycin 10 mg (12 mg/kg đối với trẻ em) một lần/ngày trong 5 ngày

Trimethoprim/sulfamethoxazole có thể được thay thế ở những bệnh nhân ≥ 2 tháng không dung nạp hoặc quá mẫn với kháng sinh macrolide.

Kháng sinh cũng nên điều trị cho các biến chứng (ví dụ, viêm phổi, viêm tai giữa).

Phòng ngừa ho gà

Tiêm chủng kháng thể chống lại ho gà là một phần của tiêm phòng chuẩn của trẻ. 5 liều vắc-xin của vắc-xin ho gà toàn tế bào (thường kết hợp với bạch hầu và uốn ván [DTaP]) được thêm khi 2, 4 và 6 tháng tuổi; khi 15-18 tháng và khi 4 đến 6 tuổi.

Miễn dịch sau khi nhiễm trùng tự nhiên kéo dài khoảng 20 năm.

Những người tiếp xúc gần < 7 tuổi đã tiêm < 4 liều vắc xin nên hoàn thành lịch tiêm chủng được khuyến nghị ở trẻ em.

Thuốc kháng sinh sau phơi nhiễm nên được sử dụng cho những người tiếp xúc trong gia đình trong vòng 21 ngày kể từ khi bắt đầu ho ở bệnh nhân, cho dù họ đã được tiêm phòng hay chưa.

Kháng sinh sau phơi nhiễm cũng nên được dùng cho những người có nguy cơ cao sau đây trong vòng 21 ngày kể từ khi được tiêm phòng, cho dù họ đã được tiêm phòng hay chưa:

  • Trẻ sơ sinh < 12 tháng
  • Phụ nữ trong ba tháng thứ 3 của thai kỳ
  • Tất cả những người có tình trạng sức khoẻ có thể bị trầm trọng hơn do nhiễm trùng ho gà (ví dụ, suy giảm miễn dịch, hen trung bình đến nặng, bệnh phổi mãn tính)
  • Những người có tiếp xúc gần gũi với trẻ < 12 tháng tuổi, phụ nữ mang thai, hoặc bệnh nhân có tình trạng có thể dẫn đến bệnh nặng hoặc biến chứng
  • Tất cả những người ở các cơ sở có nguy cơ cao bao gồm trẻ sơ sinh < 12 tháng tuổi hoặc phụ nữ trong ba tháng cuối của thai kỳ (ví dụ như trung tâm chăm sóc trẻ em, các phòng thai sản, các đơn vị chăm sóc sơ sinh)

Những người này nên được dùng liều 7 đến 14 ngày uống erythromycin 500 mg 4 lần mỗi ngày hoặc 10 đến 12,5 mg/kg 4 lần mỗi ngày. Thuốc kháng sinh thay thế bao gồm clarithromycin và azithromycin. Đối với trẻ sơ sinh < 1 tháng, azithromycin được ưu tiên sử dụng để điều trị dự phòng sau phơi nhiễm.

Những điểm chính

  • Ho gà là một bệnh nhiễm trùng đường hô hấp có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng phổ biến nhất và có thể gây tử vong ở trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ < 6 tháng tuổi.
  • Một giai đoạn xuất tiết với các triệu chứng viêm long đường hô hấp được theo sau bởi một giai đoạn toàn phát với các cơn ho nhanh, liên tiếp, lặp lại theo sau bởi nhịp thở sâu, nhanh (ho gà).
  • Bệnh này kéo dài khoảng 7 tuần, nhưng ho có thể tiếp tục trong nhiều tháng.
  • Chẩn đoán bằng cách sử dụng phương pháp PCR hoặc các nuôi cấy dịch mũi họng; Phương tiện đặc biệt là bắt buộc.
  • Điều trị bằng kháng sinh macrolide để cải thiện bệnh (trong giai đoạn xuất tiết) hoặc giảm thiểu sự truyền nhiễm (trong giai đoạn toàn phát và sau đó).
  • Dự phòng bệnh bằng vaccin vô bào là một phần của chương trình tiêm chủng (bao gồm cả việc tăng cường cho người lớn) và người tiếp xúc gần với erythromycin.
  • Việc không bị bệnh cũng không được chủng ngừa nào cung cấp sự bảo vệ suốt đời, mặc dù lần tiếp theo đều có xu hướng nhẹ hơn.

Thông tin thêm

Sau đây là một nguồn thông tin bằng tiếng Anh có thể hữu ích. Vui lòng lưu ý rằng CẨM NANG không chịu trách nhiệm về nội dung của tài liệu này.