Một số biện pháp giúp học sinh lớp bà giải bài toán bằng hai phép tính

-->

1PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO LANG CHÁNHTRƯỜNG TIỂU HỌC YÊN THẮNG ISÁNG KIẾN KINH NGHIỆMMỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 LÀM TỐT CÁC BÀI TẬP GIẢI TOÁNCÓ LỜI VĂN VỚI HAI PHÉP TÍNHNgười thực hiện: Quách Văn QuyềnChức vụ: Giáo viênĐơn vị công tác: Trường Tiểu học Yên Thắng ISKKN thuộc môn: ToánTHANH HOÁ NĂM 2014PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀI. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: - Trong môn Toán ở bậc Tiểu học, các bài toán có văn có một vị trí rất quan trọng. Kết quả học toán của học sinh cũng được đánh giá trước hết qua khả năng giải toán.Bởi vì: + Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả cáckiến thức về Số học, về Đo lường, về các yếu tố Đại số, về các yếu tố Hình học đãđược học trong môn toán ở Tiểu học. + Thông qua nội dung thực tế nhiều dạng của các đề toán, học sinh sẽ tiếp nhậnđược những kiến thức phong phú về cuộc sống và có điều kiện để rèn luyện khảnăng áp dụng những kiến thức toán học vào cuộc sống.- Mỗi đề toán là một bức tranh thu nhỏ của cuộc sống. Khi giải mỗi bài toán, họcsinh biết rút ra từ bức tranh ấy bản chất toán học của nó, phải biết lựa chọn nhữngphép tính thích hợp, biết làm đúng các phép tính đó, biết đặt lời giải chính xác Vìthế quá trình giải toán sẽ giúp học sinh rèn luyện khả năng quan sát và giải quyếtcác hiện tượng của cuộc sống qua con mắt toán học của mình. + Việc giải các bài toán sẽ giúp phát triển trí thông minh, óc sáng tạo và thói quenlàm việc một cách khoa học cho học sinh. Bởi vì khi giải toán học sinh phải biết tậptrung vào bản chất của đề toán, phải biết gạt bỏ những cái thứ yếu, phải biết phânbiệt cái đã cho và cái phải tìm, phải biết phân tích để tìm ra đường dây liên hệ giữacác số liệu. Nhờ đó mà đầu óc các em sẽ sáng suốt hơn, tinh tế hơn, tư duy của cácem sẽ linh hoạt, chính xác hơn, cách suy nghĩ và làm việc của các em sẽ khoa họcvà lo-gic hơn. + Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề, tựmình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, tự mình kiểmtra lại kết quả Do đó giải toán là một cách rất tốt để rèn luyện đức tính kiên trì, tựlực vượt khó, cẩn thận, chu đáo, yêu thích sự chặt chẽ, chính xác. - Trong chương trình giải toán với hai phép tinh ở lớp 3, học sinh phải biết giải cácbài toán với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản; giải các bài toán liên quan đếnrút về đơn vị và bài toán có nội dung hình học. - Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy - học giải toán có lời văn với haiphép tính. Tôi mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm: “Một số biện pháp giúp họcsinh lớp 3 làm tốt các bài tập giải toán có lời văn với hai phép tính”.2II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: - Nghiên cứu Sách giáo khoa, Sách giáo viên, Vở bài tập Toán 3 và các tài liệu cóliên quan để nắm được nội dung chương trình, trên cơ sở lí luận thực tiễn, phân tíchnhững ưu điểm tồn tại để đưa ra những biện pháp, giải pháp hữu ích nhằm nâng caohiệu quả giảng dạy giải toán có lời văn.III. CƠ SỞ VÀ ĐỐI TƯỢNG:- Căn cứ vào nội dung, chương trình, phương pháp dạy học toán 3.- Đối tượng nghiên cứu là 9 em học sinh lớp 3B - Trường Tiểu học Yên Thắng I.IV. PHẠM VI THỰC HIỆN: Tìm ra biện pháp để giúp học sinh nắm vững kiến thức, kĩ năng và giải thànhthạo các loại toán có lời văn với hai phép tính ở lớp 3. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀA. QUY TRÌNH THỰC HIỆNI. Điều kiện:* Thuận lợi: - Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường; Chuyên môn của nhà trường. - Giáo viên hiểu rõ tầm quan trọng của việc dạy học giải toán có lời văn. - Giáo viên nắm được phương pháp và hình thức dạy học giải toán có lời văn. - Học sinh được học hai buổi / ngày. Đa số học sinh có ý thức học tập tốt.* Khó khăn: - Giáo viên phối kết hợp các phương pháp dạy học chưa linh hoạt. - Bài giảng chưa thực sự thu hút học sinh. - Học sinh còn thụ động trong suy nghĩ. Thường nôn nóng, đọc qua loa đề bài,chưa chú ý đến các dữ kiện, dữ liệu của bài toán. - Khả năng suy luận của học sinh còn hạn chế dẫn đến máy móc, bắt chước, chỉgiải được các dạng toán có sẵn, khi gặp bài toán ở dạng biến đổi thì không làmđược. - Kĩ năng tính toán còn thiếu chính xác dẫn đến khi giải toán hay sai kết quả. - Một số em chưa biết cách đặt lời giải cho yêu cầu của bài toán, chưa biết cáchtrình bày bài toán. [Do chưa phân tích được bài toán, chưa biết cách giải bài toán]. - Học sinh Khảo sát việc “ Giải toán có lời văn với hai phép tính” đầu năm học 2013 – 2014của lớp 3B như sau:3Tổng số Giải thành thạo Biết giải Chưa biết giảiLS % LS % LS %HS [9] 0 0 2 22,2 7 77,8II.Phương pháp: - Phương pháp khảo sát. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích, tổng hợp. - Phương pháp kiểm tra, đánh giá. - Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động học tập của học sinh. [ Đây là phương pháp nghiên cứu chính]III. Biện pháp:1] Phân loại đối tượng học sinh: Căn cứ vào chất lượng học sinh tôi có thể phân loại như sau:- Nhóm 1: Những học sinh biết giải toán [ 2 em].- Nhóm 2: Những học sinh chưa biết giải toán [7 em].2] Phân nhóm các loại toán:- Nhóm 1: Những bài toán điển hình, quá trình giải có phương pháp riêng cho từngdạng.- Nhóm 2: Những bài toán mà quá trình giải toán không theo một phương phápthống nhất cho bài toán đó.3] Quá trình dạy học giải toán có lời văn: Trên cơ sở nắm một cách chắc chắn các đối tượng học sinh lớp mình, nắm đượccấu trúc chương trình các bài toán có lời văn tôi lựa chọn hình thức, phương phápdạy học cho phù hợp.Quá trình dạy học giải toán có lời văn chia ra làm các bướcsau: Bước 1: Đọc kĩ và hiểu đề toán Là một công việc có ý nghĩa hết sức quan trọng, các em có đọc kĩ đề mới nắmbắt được các dữ kiện của bài toán, nếu đọc qua loa sẽ hiểu nhầm, hiểu sai về mốiquan hệ giữa các dữ kiện của bài toán và gây khó khăn cho bước tiếp theo. Gạchdưới một số thuật ngữ toán quan trọng có trong đề bài. Chẳng hạn: “ kém 2 lần”, “hơn 2 đơn vị”, “ gấp 3 lần”, “ bằng một phần ba” Ở bước này tôi luôn gọi những em giải toán chưa tốt đọc đề bài nhiều lần vànhấn mạnh ở những dữ kiện của bài toán và giúp cho học sinh hiểu một số thuậtngữ của bài toán.4 Ngoài việc đọc đề toán thì kết hợp với đọc các em cần phải hiểu đề toán. Như:đề toán cho biết những gì? Yêu cầu tìm gì? Ví dụ: [Bài 2 Toán 3 trang 129 SGK] Có 2135 quyển vở được xếp đều vào 7 thùng. Hỏi 5 thùng đó có bao nhiêuquyển vở? Khi yêu cầu học sinh đọc bài toán này cần hướng dẫn các em đọc kỹ để từ đócác em mới nắm được các dữ liệu liên quan có trong bài toán.Bước 2: Tóm tắt đề toán Đây là dạng diễn đạt ngắn gọn đề toán, tóm tắt đúng sẽ giúp cho học sinh cócách giải dễ dàng hơn, thuận lợi hơn. Nhìn vào tóm tắt là định ra các bước giải bàitoán. Có 4 cách tóm tắt đề toán: - Cách 1: Dưới dạng câu ngắn. - Cách 2: Dưới dạng sơ đồ đoạn thẳng. - Cách 3: Dưới dạng hình vẽ. - Cách 4: Tóm tắt bằng kí hiệu. Tuỳ vào dạng toán mà tôi hướng dẫn cho các em cách tóm tắt phù hợp. Khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc hình vẽ cần phải đảm bảo tính cân đối,chính xác. Ở những dạng toán học sinh mới gặp lần đầu, giáo viên có thể làm mẫu tóm tắt.Sau đó nên gợi ý, hướng dẫn học sinh tự mình tóm tắt đề toán thì tốt hơn. Với đối tượng học sinh giải toán còn chậm hoặc hay nhầm lẫn thì giáo viên cầnhướng dẫn cụ thể để học sinh tự tóm tắt được bài toán theo cảm nhận của các em từđó giáo viên không nên làm thay trong mọi trường hợp, mà chỉ đứng vai trò gợi ý,hay hướng dẫn để các em tự mình thực hiện nhiệm vụ. Sau khi tóm tắt xong giáo viên cho học sinh nhắc lại ngắn gọn đề toán [bằngtóm tắt] mà không cần nhắc lại nguyên văn. Bước 3: Phân tích đề toán để tìm cách giải Bước phân tích đề toán để tìm ra cách giải là bước quan trọng nhất trong quátrình giải một bài toán của học sinh, đồng thời cũng là bước khó khăn nhất đối vớicác em, nhất là các dạng bài toán giải bằng hai phép tính. Vì vậy khi giải một bàitoán tôi thường xuyên rèn luyện, hướng dẫn các em phân tích từng bước một cáchrõ ràng, chính xác thông qua hệ thống câu hỏi, câu trả lời ngắn gọn, dễ hiểu. Dầndần các em sẽ quen dần và sẽ biết phân tích, lập sơ đồ phân tích bài toán trong khigiải một cách đúng đắn và nhanh chóng. Ví dụ: Bài 2, trang 128 [SGK]5 Có 28kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo? Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh7 tấm bưu ảnh. Hỏi hai anh em cótất cả bao nhiêu tấm bưu ảnh? Ta có thể dùng phương pháp phân tích để hướng dẫn học sinh suy luận như sau:Hỏi: Bài toán hỏi gì? [5 bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo]Hỏi: Muốn biết năm bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo ta làm như thế nào? [Lấysố ki-lô-gam gạo ở mỗi bao nhân với 5 bao].Hỏi: Số ki-lô-gam gạo ở mỗi bao biết chưa? [Chưa biết]. Muốn tìm số ki-lô-gamgạo ở mỗi bao ta làm thế nào? [Lấy số gạo ở 7 bao chia cho 7]. Có thể ghi vắn tắt quá trình phân tích trên bằng sơ đồ:Số kg ở 7 baoSố kg ở mỗi bao = ChiaSố kg ở 5 bao = x 75 Khi phân tích một bài toán cần hướng dẫn cho học sinh có thói quen tự đặt câuhỏi, chẳng hạn: + Bài toán hỏi gì? + Muốn trả lời câu hỏi của bài toán phải biết gì? Phải thực hiện những phéptính gì, và từ những dữ kiện đã cho có thể biết được gì? Muốn biết thì phải làmphép tính gì? Làm phép tính đó có cần thiết cho việc trả lời câu hỏi của bài toánkhông? Khuyến khích hướng dẫn học sinh biết nhận xét, tìm cách giải bài toán bằngnhiều phương pháp khác nhau, đồng thời biết chọn cách giải hay nhất, đơn giảnnhất. Điều đó có tác dụng rất lớn trong việc phát huy tính sáng tạo, rèn luyện tưduy linh hoạt, phát triển trí thông minh. Đồng thời nó đem lại niềm hứng thú chohọc sinh trong khi học toán. Ví dụ: Bài 3 trang 80, SGK: Mẹ hái được 60 quả táo, chị hái được 35 quả táo. Số táo của cả mẹ và chị đượcxếp đều vào 5 hộp. Hỏi mỗi hộp có bao nhiêu quả táo? Với bài toán này sau khi hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề và tóm tắt ta có thểhướng hẫn họ sinh phân tích như sau: Hỏi: Muốn biết mỗi hộp có bao nhiêu quả táo ta làm như thế nào? [Lấy số táo chia cho số hộp] Hỏi: Số táo bằng bao nhiêu? [Chưa biết]6 Hỏi: Vậy tìm số táo như thế nào? [Lấy số táo hai mẹ con cộng lại] Từ việc phân tích đó giáo viên hướng dẫn các em phân tích trên sơ đồ tóm tắtnhư sau:Số táo của mẹSố quả táo của mẹ và chị = CộngSố quả táo mỗi hộp = Chia Số táo của chị5 Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải Sau khi học sinh đã tìm được cách giải bài toán bằng phương pháp phân tích, lậpsơ đồ giải toán, thì việc trình bày bài giải không phải là bước khó khăn lắm đối vớicác em. Tuy vậy cũng cần hướng dẫn cho các em bết viết lời giải và trình bày bàigiải một cách khoa học rõ ràng, chính xác và đầy đủ theo phương pháp tổng hợp,ngược với phương pháp phân tích để tìm lời giải. Chẳng hạn, đối với bài toán ở vídụ Bài 2, trang 128, từ sơ đồ này ta có thể đi ngược từ dưới lên để trình bày bài giảinhư sau: Bài giải:Số gạo ở mỗi bao là:28 : 7 = 4 [ kg]Số gạo trong 5 bao là:4 x 5 = 20 [ kg] Đáp số: 20 ki-lô-gam gạo Hay bài toán ở ví dụ Bài 3 trang 80, SGKBài giải:Số quả táo của chị và mẹ hái được là:60 + 35 = 95 [quả]Mỗi hộp có số quả táo là:95 : 5 = 19 [quả] Đáp số: 19 quả táoBước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả Việc giúp cho học sinh có thói quen tự kiểm tra lại kết quả của bài toán đã tìm ralà một việc rất quan trọng, vì nó giáo dục các em đức tính cẩn thận, chu đáo, ý thứctrách nhiệm với công việc mình làm. Có thể dùng các hình thức kiểm tra sau: - Xét tính hợp lí của đáp số.7 - Trong trường hợp bài toán có nhiều cách giải mà tất cả các cách giải đều dẫn tớicùng một đáp số thì đáp số đó là đúng. - Thử lại đáp số dựa vào các mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìmbằng cách lập bài toán ngược lại bài toán đã giải, coi đáp số tìm đượclà số đã biếtvà một trong những số đã cho là chưa biết. Nếu tìm thấy đáp số của bài toán ngượcnày đúng bằng số đã cho coi là chưa biết ấy thì bài toán đã được giải đúng. 4] Một số vấn đề tôi luôn lưu ý trong việc dạy giải toán có văn với hai phép tính: a]. Phải quan tâm đầu tư chu đáo cho việc dạy giải toán có văn[ soạn bài, chuẩn bị đồ dùng, nghiên cứu tài liệu, ] tự mình giải tất cả các bài toántrong SGK, sách tham khảo. b]. Phát huy tính tích cực của học sinh trong việc giải toán: + Tổ chức học nhóm: Học sinh có điều kiện để bàn bạc, thảo luận tìm ra cách giảiđúng đối với những bài toán khó, tương đối phức tạp. Động viên học sinh mạnhdạn trình bày ý kiến của mình, dần dần giúp học sinh chủ động, tự tin, không dựavào giáo viên. + Hoạt động cá nhân: Để có thể kiểm tra được hoạt động của từng học sinh trongquá trình giải toán, tôi yêu cầu học sinh lập sơ đồ phân tích trên giấy nháp.Qua đóphát hiện, giúp đỡ những học sinh yếu kém trong giải toán. c] Tăng cường luyện tập thực hành giải toán. Lượng bài tập đưa ra phải phù hợpvới từng đối tượng học sinh. Hệ thống câu hỏi tìm hiểu đề, phân tích đề để tìm cáchgiải phải rõ ràng, ngắn gọn, dễ hểu. d] Cần rèn cho học sinh kĩ năng thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chiachính xác. Bởi nếu như các em biết cách giải toán song trong quá trình tính toán saithì sẽ dẫn đến bài toán giải không đạt kết quả. đ] Dạy học cá thể hoá để tìm ra sai lầm và nguyên nhân dẫn đến sai lầm của từnghọc sinh trong quá trình giải toán. Phải kiên trì và kịp thời sửa chữa sai lầm của họcsinh một cách chu đáo. e] Luôn thay đổi các hình thức luyện tập giải toán để gây hứng thú học tập chohọc sinh .B. KẾT QUẢ Với những biện pháp trên tôi nhận thấy kĩ năng giải toán của học sinh được nânglên rõ rệt, các em đã biết cách phân tích đề toán, biết đâu là “giả thiết” đâu là “kếtluận”, tất cả các đối tượng học sinh trong lớp đều biết cách trình bày bài toán giải,nhiều em đạt bài khá, giỏi vì có các câu trả lời rất sáng tạo phù hợp với yêu cầu cầntìm của bài toán. Đặc biệt các hình thức học nhóm thảo luận tìm cách giải hay các8hình thức dưới dạng tổ chức trò chơi được học sinh hưởng ứng và tham gia rất tíchcực. Kết quả việc giải toán của học sinh qua kiểm tra giữa học kỳ II, như sau:Tổng số Giải thành thạo Biết giải Chưa biết giảiLS % LS % LS %HS [9] 4 44,4 5 55,6 0PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Kết luận Muốn nâng cao chất lượng trong việc dạy học giải toán có lời văn với hai phéptính, cần: * Đối với học sinh: - Tăng cường học tập toán, đặc biệt là giải toán. - Tập trung nghe giảng, có tinh thần tự học tự rèn, tự giác học tập. - Học thuộc tất cả quy tắt, công thức,cách giải toán theo từng dạng. - Nắm được quy trình giải toán có văn. - Tham khảo nhiều sách, tìm hiểu các đề toán hay. * Đối với giáo viên: - Chú trọng việc dạy học giải toán có lời văn. - Nắm vững quy trình giải toán có văn. - Chuẩn bị tốt nội dung, hệ thống câu hỏi đưa ra khai thác. - Quan tâm đến từng đối tượng học sinh. - Kịp thời uốn nắn sửa sai cách làm bài, trình bày bài làm của học sinh. - Tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tínhtích cực của học sinh. - Giáo viên thể hiện tính kiên trì, bền bỉ, nhiệt tình, hết lòng vì học sinh. 2. Đề nghị Trong quá trình nghiên cứu đề tài này bản thân tôi hết sức cố gắng. Tuynhiên cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết nào đó. Vậy tôi đề nghị đồngnghiệp chia sẻ, góp ý, động viên để đề tài này khả thi trong việc dạy và học.9XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊThanh Hóa, ngày tháng năm 2013Tôi xin cam đoan đây là SKKN củamình viết, không sao chép nội dung củangười khác.Quách Văn Quyền10 11

Page 2

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề