Gà mới của yg là ai

Đây là một tên người Triều Tiên, họ là Yang.

Yang Hyun-suk, [tiếng Hàn: 양현석, Hanja: 梁鉉錫, Hán-Việt: Lương Huyền Tích, sinh ngày 5 tháng 1 năm 1970] là cựu chủ tịch kiêm người sáng lập ra công ty giải trí YG Entertainment [đã rời công ty ngày 14 tháng 6 năm 2019 sau loạt scandal lùm xùm trong công ty], một trong những công ty tầm trung lớn của giới truyền thông Hàn Quốc.

Yang Hyun-suk

Yang Hyun-suk năm 2016

Sinh5 tháng 1, 1970 [52 tuổi]
Seoul,
 
Hàn Quốc
Tên khácYGBạn đờiLee Eun-ju [2010–nay]Con cái2Sự nghiệp âm nhạcDòng nhạc

  • Pop
  • hip hop

Năm hoạt động1990–nayHãng đĩaYG EntertainmentHợp tác với

  • Seo Taiji and Boys
  • YG Family

Websiteyanggoon.com [Không còn hoạt động]Tên tiếng Triều TiênHangul

양현석

Hanja

梁鉉錫

Romaja quốc ngữYang Hyeon-seokMcCune–ReischauerYang Hyŏnsŏk

Ngày 14/6/2019 Yang Hyun Suk tuyên bố từ chức Chủ tịch và rời YG entertainment cùng với em trai của mình là Yang Min-suk

Ngày 17/7/2019 ông chính thức bị cảnh sát cáo buộc là nghi phạm môi giới mại dâm

Trước khi thành lập YG Entertainment ông là một thành viên của nhóm nhạc Seo Taiji and Boys nổi tiếng vào thập niên 1992 đến 1996 cùng với Lee Juno và Yang Hyun-seok. Yang cho biết lần đầu tiên anh gặp Seo khi nhạc sĩ đến gặp anh để học nhảy. "Bị thổi bay" bởi âm nhạc của mình, Yang đề nghị gia nhập nhóm và sau đó họ đã tuyển dụng Lee, một trong những vũ công hàng đầu ở Hàn Quốc. Nhóm có ảnh hưởng đến nền âm nhạc Hàn Quốc, nổi tiếng với đĩa đơn "Nan Arayo" [tiếng Triều Tiên: "알아요", "Tôi biết"]. Nhóm đã nhận được những lời chỉ trích cho album khác nhau, đáng chú ý nhất cho các bài hát, "Shidaeyugam" [tiếng Triều Tiên: 시대 유감, "Hối hận về thời đại"], mà sự phản ứng dữ dội của người hâm mộ đã dẫn đến việc bãi bỏ luật Kiểm duyệt trước năm 1996. Nhóm tan rã vào năm 1996, với mỗi thành viên theo đuổi các hoạt động solo.

Ông đã tạo ra các nhóm nhạc và nghệ sĩ nổi tiếng như: Big Bang, 2NE1, WINNER, iKON, Black Pink, PSY, Lee Hi... Ngoài ra ông còn tuyển chọn ca sĩ qua chương trình KPOP STAR để chọn ra được những ưu tú như nhóm nhạc Akdong Musician, thực tập sinh Bang Ye Dam. Ông còn tuyển chọn qua chương trình MIXNINE để chọn ra những thực tập sinh tốt nhất cho YG Entertainment.

  • Yang Hyun Suk trang web chính thức[Không còn hoạt động]

Bản mẫu:K-pop Star

  Bài viết tiểu sử này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.

  • x
  • t
  • s

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Yang_Hyun-suk&oldid=68643499”

YG Entertainment [tiếng Hàn: YG 엔터테인먼트; RR: YG enteoteinmeonteu] được thành lập vào năm 1996 bởi Yang Hyun-suk. Công ty hoạt động như một hãng thu âm, công ty tài năng, công ty sản xuất âm nhạc, công ty quản lý sự kiện, sản xuất buổi hòa nhạc và nhà xuất bản âm nhạc. YG còn điều hành một số công ty con thuộc một công ty thương mại công cộng riêng biệt gồm một thương hiệu quần áo, một cơ quan quản lý sân golf và một thương hiệu mỹ phẩm.[3]

YG Entertainment

Tên bản ngữ

YG 엔터테인먼트

Tên phiên âm

YG enteoteinmeonteuNgành nghềGiải trí

Thành viên chủ chốt

Hwang Bo-kyung [CEO]Doanh thu
228,81 triệu USD [2021][1]

Lợi nhuận kinh doanh

32,02 triệu USD [2021][1]

Lãi thực

6,53 triệu USD [2021][1]Chủ sở hữu

  • Yang Hyun-suk [17.12%]
  • Naver [9.02%]
  • Shanghai Fengying Business Consultant Partnership Ltd. [5.78%]
  • Tencent Mobility Ltd. [4.37%]
  • Yang Min-suk [3.52%]
  • YG Entertainment, Inc. [0.78%]
  • Khác [59.42%]

[2]Số nhân viên339 [tính đến năm 2020]Công ty con

  • YGX
  • YGKPlus
  • YGPlus
  • The Black Label
  • NONA9ON
  • moonshot
  • YG Golf Academy
  • 3geori Butchers
  • Shining Star Culture

Websiteygfamily.com

Các nghệ sĩ hiện tại bao gồm Sechskies, Big Bang, Akdong Musician, Winner, iKON, Blackpink và Treasure cũng như các diễn viên Kang Dong-won, Choi Ji-woo, Cha Seung-won, Lee Sung-kyung và Yoo In-na và Son Na-eun. Các nghệ sĩ nổi bật khác bao gồm Jeon So-mi [trực thuộc công ty con The Black Label] và Anda [trực thuộc công ty con YGX].

Các cựu nghệ sĩ của công ty bao gồm Wheesung, Epik High, 1TYM, Gummy, Seven, Minzy, Park Bom, 2NE1, Nam Tae-hyun, Lee Jong-suk, Psy, Seungri, B.I, One, CL, Lee Hi, Jinusean và Sandara Park.

Vào tháng 3 năm 1996, Yang Hyun-suk, cựu thành viên của nhóm nhạc K-pop thế hệ đầu tiên, Seo Taiji and Boys, đã thành lập YG Entertainment cùng với em trai của mình là Yang Min-suk.[4][5] Nghệ sĩ đầu tiên của công ty là bộ ba hip hop Keep Six. Khi họ không thu hút được sự nổi tiếng, Yang Hyun-suk đã chuyển sự tập trung của mình sang bộ đôi Jinusean và ra mắt 1TYM vào năm 1998. Cả hai nhóm đều là những nghệ sĩ thành công được Yang Hyun-suk ghi nhận vì đã đưa YG và thể loại hip hop trở thành nền âm nhạc chính thống của Hàn Quốc.[4]

Năm 1999, các nghệ sĩ của YG đã phát hành một album hợp tác mang tên YG Family. Công ty sau đó đã phát hành các sản phẩm âm nhạc của các nghệ sĩ như Perry, Swi.T, Big Mama, Lexy, Gummy và Wheesung. Nó cũng thành lập công ty "YG Underground", bao gồm 45RPM và Stony Skunk. Năm 2001, album YG Family thứ hai được phát hành. Trong số những nghệ sĩ khác, nó có sự góp mặt của cậu bé 13 tuổi, G-Dragon, khi đó đang là một thực tập sinh.[6]

Công ty đạt được thành công ở cả Hàn Quốc và Nhật Bản với ca sĩ "thần tượng" đầu tiên Seven vào năm 2003,[7] người đã trở thành nghệ sĩ đầu tiên của công ty cố gắng lấn sân sang thị trường âm nhạc Hoa Kỳ, mặc dù màn ra mắt tại Hoa Kỳ của anh không đạt được thành công.[8]

2006–2011: Đột phá chính

 

Big Bang là nghệ sĩ thành công nhất của YG và chịu trách nhiệm cho hơn một nửa tổng doanh số album của YG tại Hàn Quốc từ năm 2014 đến năm 2017.[9]

Sau thành công của Se7en, YG đã thành lập nhóm nhạc thần tượng đầu tiên Big Bang vào năm 2006. Mặc dù ban đầu được đón nhận khá nồng nhiệt, nhưng sự bứt phá của nhóm được bắt đầu vào năm sau và sự nổi tiếng ổn định của họ đã khiến họ trở thành một trong những nhóm nhạc nam nổi tiếng nhất.[10] Tiếp theo là nhóm nhạc nữ đầu tiên 2NE1 của YG vào năm 2009,[11] trước khi tách nhóm vào năm 2016, họ đã được coi là một trong những nhóm nhạc nữ thành công và nổi tiếng nhất ở Hàn Quốc.[12][13] Tương tự như Seven, cả hai nhóm đều có sự nghiệp thành công ở Nhật Bản.[14][15][16]

 

2NE1 ra mắt vào năm 2009 với tư cách là nhóm nhạc nữ đầu tiên của YG và trở thành nhóm nhạc đầu tiên có 9 bài hát quán quân trên bảng xếp hạng Gaon Digital Chart.

Năm 2010, YG đã có một động thái được công bố rộng rãi cho việc di dời đến một tòa nhà mới, trong khi trụ sở cũ trở thành một trụ sở đào tạo.[17][18] Cùng năm, công ty đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán nhưng không thành công; người ta nghi ngờ rằng điều này là do công ty có quá ít nhóm nhạc hoạt động và doanh thu không ổn định, mặc dù thu nhập tăng trong năm 2009.[19] Cuối năm đó, công ty đã ký hợp đồng với nghệ sĩ Psy.[20]

2012–2015: Sự công nhận quốc tế và mở rộng kinh doanh

Năm 2012 đã mang lại cho YG sự công nhận quốc tế khi "Gangnam Style" của Psy trở nên phổ biến trên toàn thế giới như một video lan truyền. Vào ngày 21 tháng 8, nó đã đứng ở vị trí số 1 trên iTunes Music Video Charts. Đây là thành tích đầu tiên của một nghệ sĩ Hàn Quốc.[21] Đến ngày 24 tháng 11, "Gangnam Style" đã trở thành video được xem nhiều nhất trong lịch sử YouTube và là video đầu tiên vượt qua 1 tỷ lượt xem.[22][23] Bài hát được cho là nguyên nhân chính khiến giá cổ phiếu của YG tăng hơn 60%,[24] công ty sau đó đã nộp báo cáo thường niên đầu tiên vào năm 2012 với lợi nhuận hơn 50%,[25] sau khi niêm yết trên KOSDAQ vào năm trước.[3]

Cùng năm đó, công ty đã ký hợp đồng với rapper kiêm nhà sản xuất Tablo, trưởng nhóm của nhóm nhạc hip hop Epik High, bắt đầu lại sự nghiệp của anh sau một thời gian gián đoạn sự nghiệp âm nhạc sau cuộc tranh cãi ở trường Stanford.[26] Epik High sau đó đã chuyển sang YG sau thành công của anh.[27]

Việc Yang Hyun-suk tham gia nhiều hơn vào các chương trình truyền hình thực tế sống còn đã dẫn đến một số thỏa thuận hợp đồng với các thí sinh, bắt đầu với á quân mùa đầu tiên của K-pop Star là Lee Hi.[28] Những người tham gia khác trong chương trình đã được ký hợp đồng với tư cách là thành viên tiềm năng của các nhóm nhạc nam tương lai của công ty. Vào mùa thứ hai của chương trình, cả hai người chiến thắng, bộ đôi anh em Akdong Musician và á quân Bang Ye-dam, đã ký hợp đồng với YG.[29][30] Ngoài ra, chương trình thực tế WIN: Who is Next sau đó đã được YG công bố, trong đó hai đội nam thực tập sinh cạnh tranh với nhau để giành cơ hội ký hợp đồng với công ty và ra mắt với tư cách là nhóm nhạc nam tiếp theo của YG. Phần kết của chương trình thực tế đã chứng kiến sự hình thành của Winner.[31]

 

Winner ra mắt thành công vào năm 2014 và trở thành nhóm nhạc K-pop nhanh nhất giành vị trí số 1 trên chương trình âm nhạc. Họ đã giành được chiến thắng trong chương trình âm nhạc đầu tiên chỉ 6 ngày sau khi ra mắt.

Vào năm 2014, YG đã mua lại đội ngũ nhân viên và diễn viên của T Entertainment, bao gồm Cha Seung-won, Im Ye-jin và Jang Hyun-sung.[32] Ngoài ra, thông qua việc mua lại công ty quản lý người mẫu K-Plus, nó đã mở rộng bộ phận diễn xuất của mình thông qua sự ra mắt diễn xuất của người mẫu Lee Sung-kyung và Nam Joo-hyuk.[33] cũng đã ký hợp đồng với nữ diễn viên Choi Ji-woo.[34][35][36][37] Tập đoàn đầu tư tư nhân của tập đoàn LVMH, L Capital Asia, sau đó đã thông báo rằng họ sẽ đầu tư 80 triệu USD vào YG. Có trụ sở chính tại Singapore, L Capital Asia sẽ trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai của YG với 11,5% cổ phần, chỉ đứng sau 28% của Yang Hyun-suk.[38] Năm 2014, YG cũng mở rộng sang lĩnh vực làm đẹp với việc thành lập thương hiệu mỹ phẩm Moonshot.[39][40]

Vào năm 2015, YG đã đầu tư gần 100 triệu USD vào một khu liên hợp công nghiệp mới có trụ sở tại Gyeonggi-do, dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 12 năm 2018.[41] Bất động sản ở Seoul trị giá 16 tỷ KRW [14 triệu USD] cũng được mua với mục đích mở rộng trụ sở chính của họ.[42] Trong năm đó, công ty cũng đã thành lập hai công ty con, công ty con đầu tiên do Tablo đứng đầu,[43] và công ty con thứ hai do các nhà sản xuất YG, Teddy Park của 1TYM và Kush của Stony Skunk đứng đầu.[44] Ngoài ra, các thành viên của đội thua cuộc từ chương trình thực tế WIN: Who is Next đã tập hợp lại và ra mắt với tên iKON, cùng với một thành viên mới.[45]

2016–nay: Những phát triển gần đây và tranh cãi

 

iKon ra mắt vào năm 2015. Đĩa đơn năm 2018 của họ, "Love Scenario," đã phá vỡ nhiều kỷ lục vào thời điểm đó; trong đó có kỷ lục bài hát đứng đầu bảng xếp hạng lâu nhất, bài hát có số giờ "perfect all-kill" nhiều nhất và bài hát đầu tiên được KCMA trao chứng nhận Bạch kim.

 

Blackpink ra mắt năm 2016 và trở thành nhóm nhạc nữ K-pop đầu tiên có 4 đĩa đơn quán quân trên bảng xếp hạng World Digital Song Sales của Billboard.[46][47]

16 năm sau khi nhóm tan rã, nhóm nhạc nam K-pop thế hệ đầu tiên Sechs Kies đã ký hợp đồng với YG vào tháng 5 năm 2016 để bắt đầu lại sự nghiệp của họ.[48][49][50] Cùng tháng, hai doanh nghiệp công nghệ Trung Quốc Tencent và Weiying Technology đã công bố khoản đầu tư 85 triệu USD vào YG. Weiying chiếm 8,2% cổ phần của công ty và Tencent 4,5% chiếm cổ phần.[51] YG sau đó đã thêm Lee Jong-suk,[52] Kang Dong-won,[53] và Kim Hee-jung[54] vào danh sách diễn viên của họ.

YG ra mắt Blackpink vào năm 2016,[55] tiếp theo là nam rapper One vào năm sau.[56] Cuối năm đó, YG khởi động chương trình tìm kiếm tài năng mang tên Mix Nine, một cuộc thi giữa các thực tập sinh từ các công ty khác nhau.[57][58] Mặc dù đội chiến thắng đã được lên kế hoạch ra mắt với tư cách thần tượng,[59] YG tiết lộ rằng màn ra mắt của nhóm nam chiến thắng đã bị hủy bỏ.[60][61] Sự thất bại của chương trình đã dẫn đến khoản lỗ 7 tỷ KRW trong quý đầu tiên và 4 tỷ KRW trong 3 tháng cuối năm 2017,[9][62] khiến JYP Entertainment vượt mặt YG để trở thành công ty K-pop có giá trị cao thứ hai.[63]

Vào tháng 5 năm 2018, Psy rời công ty sau 8 năm.[64] Cuối năm đó, YG đã khởi động YG Treasure Box, một chương trình cạnh tranh sống còn để xác định đội hình cho nhóm nhạc nam tiếp theo của họ.[65] Nhóm nhạc nam Treasure đã ra mắt vào tháng 8 năm 2020.[66]

Sau vụ bê bối Burning Sun liên quan đến Seungri của Big Bang, những cáo buộc tham nhũng xung quanh Yang Hyun-suk và một vụ bê bối ma túy liên quan đến trưởng nhóm B.I của iKon, Yang Hyun-suk đã từ chức CEO và từ chức khỏi tất cả các vị trí trong YG và em trai của ông, Yang Min-suk, cũng đã từ chức CEO vào ngày 14 tháng 6 năm 2019.[67][68][69][70] Hwang Bo-kyung được bổ nhiệm làm CEO mới của YG vào ngày 20 tháng 6 năm 2019.[71]

Vào ngày 4 tháng 5 năm 2021, Korea Exchange thông báo rằng YG đã bị giáng cấp từ công ty blue-chip xuống doanh nghiệp tầm trung thông thường, kể từ khi được thăng cấp vào tháng 4 năm 2013. Công ty ghi nhận khoản lỗ ròng 1,8 tỷ KRW và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu là -0,5%. Hoạt động kinh doanh chính, sản xuất âm nhạc và quản lý, đã trải qua tình trạng kinh doanh thua lỗ trong 2 năm qua.[72]

Trong nước, YG đã có quan hệ đối tác với M-Boat Entertainment và EunGun Entertainment, Yamazone Music và Booda Sound. Sau khi hợp đồng với Big Mama và Soul Star kết thúc, EunGun và M-Boat cũng kết thúc các hoạt động của họ với YG Entertainment.

Bắt đầu từ năm 2005, YG mở rộng sang thị trường nước ngoài. Se7en là nghệ sĩ YG đầu tiên mở rộng hoạt động sang những nước còn lại của châu Á. YG đã hợp tác cùng Nexstar Records, một nhãn hiệu Nippon Columbia, để quản lý việc phát hành những sản phẩm tiếng Nhật của Se7en [73]

Universal Music Japan quản lý các hoạt động tại Nhật của Big Bang,[74] và Avex Group quản lý các hoạt động tại Nhật của 2NE1.[75] YG Entertainment phát hành các album tiếng Hàn thông qua 21 East Entertainment tại Trung Quốc, GMM International tại Thái Lan, và Universal Records tại Philippines.[76][77][78]

Năm 2011, YG Entertainment hợp tác với S.M. Entertainment, JYP Entertainment, KeyEast, AMENT và Star J Entertainment tạo nên United Asia Management để tạo ra một nỗ lực quảng bá âm nhạc Hàn Quốc ra quốc tế [79]

KMP Holdings

Tháng 3 năm 2010, KMP Holdings được thành lập thông qua hợp tác giữa YG, S.M. Entertainment, JYP, Star Empire và các công ty khác. KMP là nhà phân phối chính thức những sản phẩm của những công ty trên. KMP là viết tắt của Korean Music Power.[80]

United Asia Management

Tháng 4 năm 2011, YG, SM, JYP, KeyEast, AMENT và Star J Entertainment đã hợp tác thành lập United Asia Management nhằm mục đích quảng bá âm nhạc Hàn Quốc ra thế giới.[81]

YGEX

YGEX được thành lập dưới quan hệ đối tác giữa Avex Group và YG Entertainment cho việc quảng bá và phát hành của các nghệ sĩ YG tại Nhật Bản. Các nghệ sĩ của YGEX bao gồm tất cả những nghệ sĩ đang hoạt động thuộc YG Entertainment.[82]

YG Plus

YG Plus Inc., trước đây là Phoenix Holdings Inc.,là một công ty truyền thông và quảng cáo được YG Entertainment mua lại vào tháng 10 năm 2014. Yang Min-suk được bổ nhiệm làm CEO của công ty, YG Entertainment sở hữu 38,6% cổ phần của công ty. Một số khách hàng đáng chú ý của nó bao gồm Coca-Cola, SK Telecom và The Face Shop. YG Plus hiện sở hữu 100% cổ phần của YG KPlus và YG Golf Academy, với cổ phần thiểu số tại Moonshot và Nonagon. Năm 2019, công ty bước vào lĩnh vực phân phối âm nhạc. Vào ngày 27 tháng 1 năm 2021, nó đã được tiết lộ rằng Hybe Corporation và công ty con công nghệ của Hybe, Weverse Company [trước đây là beNX] đã đầu tư 70 tỷ KRW [~ 63 triệu USD] vào công ty.[83]

YG & Hyundai Card

Tháng 6 năm 2012, YG đã kết hợp cùng với hãng sản xuất Hyunndai để chung tay phát hành và quảng bá album Still Alive của Big Bang.[84]

YG Entertainment là một công ty tham gia rất nhiều hoạt động từ thiện, tạo dựng chiến dịch cộng đồng cùng với WITH. Họ quyên góp 100 won cho mỗi album bán ra, 1% từ các doanh thu bán lẻ, và 1,000 won cho bất cứ các vé hòa nhạc nào được bán ra cho các tổ chức từ thiện. Vào năm 2009, số tiền lên tới $141,000 USD. Họ vượt mức số tiền đó vào năm sau với $160,000 USD. Tổng cộng là $87,000 USD dành cho các suất học bổng cho Holt Children’s Services trong khi $69,000 USD là dành cho các trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo. YG Family cũng đã trực tiếp quyên tặng $4,400 USD, đó là số tiền mua than cho các gia đình nghèo khó trong mùa đông.[85] Công ty cũng thông báo rằng sẽ ủng hộ khoảng USD $500,000 cho việc cứu trợ các nạn nhân của trận động đất và sóng thần tại Nhật Bản năm 2011.[86]

Nhóm nhạc
  • Sechs Kies
  • Big Bang
  • Winner
  • iKON
  • Blackpink
  • Treasure

Bộ đôi

  • GD & TOP
  • AKMU
  • GD X Taeyang

Solo

  • Eun Ji-won
  • Big Bang
    • Taeyang
    • G-Dragon
    • Daesung
  • Winner
    • Kang Seung-yoon
    • Jinu
    • Mino
  • iKON:
    • Bobby
  • BLACKPINK:
    • Jisoo
    • Jennie
    • Rosé
    • Lisa
  • Treasure
    • Yedam
  • AKMU
    • Lee Suhyun

Nhà sản xuất

  • G-Dragon [Big Bang]
  • T.O.P [Big Bang]
  • Teddy
  • P.K
  • DEE.P
  • Mino [Winner]
  • Kang Seung-yoon [Winner]
  • Bobby [iKON]
  • Lee Chan-hyuk [AKMU]
  • Choice37
  • Bigtone
  • Kang Uk-jin
  • Millennium
  • Ham Seung-chun
  • Airplay
  • Rovin
  • ihwak
  • Diggy
  • Liøn
  • Lydia Paek
  • Jennie [Blackpink]
  • Jisoo [Blackpink]
  • Rosé [Blackpink]
  • Lisa [Blackpink]

The Black Label

  • Jeon So-mi
  • Okasian
  • Vince
  • Nhà sản xuất
    • Seo Won-jin
    • Jeon Somi
    • Dress
    • Joe Rhee
    • R.Tee
    • 24
    • Peejay
    • Okasian [The Cohort]
    • Bryan Chase [The Cohort]

YGX

  • Viini
  • Anda
  • Nhà sản xuất:
    • Choice37
    • Hae
    • Se.A
    • 1105
    • Lil G
    • Sonny

YGKplus

  • ATO6

  • Cha Seung-won
  • Choi Ji-woo
  • Claudia Kim
  • Kang Dong-won
  • Han Seung-yeon[a]
  • Jang Hyun-sung
  • Jang Ki-yong[b]
  • Jin Kyung
  • Jung Hye-young
  • Jung Yun-seok[a]
  • Joo Woo-jae[a][b]
  • Kal So-won
  • Kang Hui
  • Kang Seung-yoon
  • Kim Hee-ae
  • Kim Ji-soo
  • Kwon Han-sol[a]
  • Kwon Hyun-bin[a][b]
  • Kyung Soo-jin
  • Lee Ho-jung[b]
  • Lee Hyun-wook[b]
  • Lee Joo-myung
  • Lee Ki-taek
  • Lee Soo-hyuk[a]
  • Lee Sung-kyung
  • Lee Woo-je
  • Nam Kyu-hee[b]
  • Park Hyeong-seop[b]
  • Park So-yi
  • Park Soo-yeon
  • Park Tae-in[a]
  • Seo Jeong-yeon
  • Seo Lee-seo
  • Shim Young-eun
  • Son Na-eun
  • Wang Yi-jun
  • Yoo In-na

KooJunhoe

HI-TECH

  • Lee Jae-wook
  • Park Jung-heon
  • Kim Hee-yeon
  • Kim Byung-gon
  • Kwon Young-deuk
  • Kwon Young-don
  • Yoo Choong-jae
  • Heo Jun-seon
  • Lee Sa-heon
  • Shin Dong-ho

CRAZY

  • Kim Hee-jung
  • Won Ah-yeon
  • Kim Min-jung
  • Park Eun-young
  • Choi Sae-bom
  • Choi Hye-jin
  • Kim I-seul
  • Jin Su-hyun
  • Mai Murakawa
  • Son Su-bin
  • Park Eun-chong
  • Lulu Kim

Người mẫu nữ

  • Ahn Ye-won [thí sinh Produce 48]
  • Bae Yoon-young
  • Cho Yelim
  • Choi Ah-reum
  • Choi Ha-rim
  • Choi Jung-in
  • Choi Yeon-soo [thí sinh Produce 48]
  • Choi Young-ji
  • Choi Sae-hui
  • Choi So-ra
  • Ellis Ahn
  • Gil Minso
  • Ha Naryoung
  • Han Hye-yeon
  • Hanna N
  • Huh Bo-mi
  • Hong Hyo
  • Hong Na-kyung
  • Hwang Hyun-joo
  • Hwang So-hee
  • Hyun Ji-eun
  • Jeon Min ok
  • Ji ESuu
  • Jisoo [Blackpink]
  • Ji Ho-jin
  • Jo Hye-joo
  • Ju Hee-jeong
  • Jung Han-sol
  • Jung Ji-young
  • Jung Soo-hyun
  • Jung Yoo-sun
  • Kang Yoon-ji
  • Kelly Low [Park Min Jae]
  • Kim Eun-sun
  • Kim Hae-ah
  • Kim Hyo-kyung
  • Kim Hyun-hee
  • Kim Sae-in
  • Kim Sang-Won
  • Kim Su-bin
  • Kim Yae-ji
  • Kim Ye-rim
  • Ko Eun-bi
  • Jennie [Blackpink]
  • Kwon Ji-ya
  • Lalisa Manoban [Blackpink]
  • Jeon So-mi
  • Lee Ha-eun
  • Lee Ho-jung
  • Lee Jay
  • Lee Ji-hye
  • Lee Jung-hyun
  • Lee Roo-young
  • Lee Seung-mee
  • Lee Song-yi
  • Lee Su-jin
  • Lee Sung-kyung
  • Lee Yeon-joo
  • Nadine Lee
  • Oh Hye-ji
  • Park Jung-min
  • Park Sae-jin
  • Park Su-jin
  • Park Sun-ha
  • Park Yae-woon
  • Shim Soyoung
  • Shin Ha-young
  • Shin Hey-nam
  • Shin Hye-jin
  • Shin Hyun-ji
  • Shin Yae-min
  • Song Hyun-min
  • Song Jae-hee
  • Tiana Tolstoi
  • Um Ye-jin
  • Um Yoo-jung
  • Wu I-Hua
  • Yang Rira
  • Yeo Yeon-hui
  • Yoo Eun-bi
  • Yoon Seon-ah
  • Rosé [Blackpink]

Người mẫu nam

  • Ahn Ju-ni
  • Bae Joon-seok
  • Bang Joo-ho
  • Cheon Sang-hun
  • Cho David
  • Cho Hwan
  • Cho Hyo-in
  • Cho Sung-hoon
  • Choi Chang-wook
  • Choi Han-bin
  • Choi Jeong-gab
  • Choi Yeon-kyu
  • Erick Vic.
  • Go Ung-ho
  • Ha Seok-hwan
  • Han Sol
  • Hwang In-yeop
  • Jang Ki-yong
  • Joo Woo-jae
  • Joel Roberts
  • Jeon Jun-yeong
  • Jeong Rok-hui
  • Jiwon Hyuk
  • Jung Hyo-joon [tham gia Produce 101 mùa 2]
  • Jung Jong-won
  • Jung Sung-joon
  • Jung Ui-sung
  • Jung Yongsoo
  • Kang Hui
  • Kang Hyuk-moon
  • Kang Sung-jin
  • Kang Won-jae
  • Kim Alex
  • Kim Bo-heon
  • Kim Gun-woo
  • Kim Gyu-ho
  • Kim Hak-soo
  • Kim Han-byul
  • Kim Ho-sung
  • Kim Hyun-jin
  • Kim Hyun-woo [ATO6]
  • Kim Jong-hoon
  • Kim Jung-sik
  • Kim Ki-bum
  • Kim Kwan-joon
  • Kim Min-jong
  • Kim Pil-su
  • Kim Seung-eun
  • Kim Seung-hyun
  • Kim Sung-yeon
  • Kim Tae-wan
  • Kim Tae-woo
  • Kim Woo-ram
  • Kim Young-seok
  • Kwon Ju-hyung
  • Lee Bom-chan
  • Lee Gi-hean [ATO6]
  • Lee Hyun-jun
  • Lee Hyun-wook
  • Lee Hyung-seok
  • Lee Jae-seok
  • Lee Jin-kyeong
  • Lee Ji-seok
  • Lee Keun-yong
  • Lee Ki-taek
  • Lee Myoun-gil
  • Lee Seok-chan
  • Lee Soo-min
  • Lee Soo-hyuk
  • Lee Woo-chan
  • Lim Hoo-seok
  • Lim Jae-hyung
  • Meng Joo-ho
  • Nam Goong-dam
  • Nikita Tolstoi
  • Oh Jae-young
  • Park Bo-sung
  • Park Byung-min
  • Park Hong [ATO6]
  • Park Hyeong-seop
  • Park Jong-ik
  • Park Ki-tae
  • Park Yae-chan
  • Seo Soo-won
  • Seo Hong-seok
  • Seok Ji-an
  • Seong Woo-jin
  • Shin Jae-hyuk
  • Shin Dong-ho
  • Shin Yong-guk [ATO6]
  • Son Hyun-woo [ATO6]
  • Viini [cựu thành viên JBJ]
  • Song Kyung-mok
  • Yoo Hyun-woo
  • Yoon Jun-woo
  • Yoon Su-ho
  • Won Jeong Hwang

Thực tập sinh nữ

  • Vương Tư Dư[Jane] [1999] [thí sinh Idol Producer 3]
  • Kang Seo-jin [2000] [thí sinh Kpop Star Mùa 4]
  • Ngụy Thần[Vicky] [2000] [thí sinh Idol Producer 3]
  • Im Chae-yoon [2004]
  • Ahn Su-bin [2003]
  • Kim Jang-mi [2004]
  • Kim Eun-kyul [2005]
  • Han Byul [2006] [thí sinh Kpop Star Mùa 6]
  • Yang Chae-un [2006]
  • Byun Seo-young [2007]

Thực tập sinh nam

  • Trâu Mộc Lâm[Merle] [1998]
  • Trần Kim Hâm[Jayden] [1998] [thí sinh Idol Producer 4]
  • Ức Hiên[Kingston] [1999] [thí sinh Idol Producer 4]
  • Đỗ Ái Kiệt[Dimo] [2002]
  • Ngụy Tinh Chưng[Vic]

  • Keep Six [1996][87]
  • Sechs Kies
    • Kang Sung-hoon [2016–2019][88]
  • Jinusean [1997–2020][c]
  • 1TYM [1998–2006][d]
  • Masta Wu [2000–2016][89]
  • Swi.T [2002–2005][90]
  • Wheesung [2002–2006]
  • Gummy [2003–2013]
  • Big Mama [2003–2007]
  • Seven [2003–2015]
  • Digital Masta [2003–2011][91]
  • Lexy [2003–2007]
  • Stony Skunk [2003–2008]
  • XO [2003–2004]
  • Wanted [2004–2006][92]
  • Brave Brothers [2004–2008]
  • 45RPM [2005–2008][93]
  • SoulStaR [2005–2007][93]
  • Big Bang
    • Seungri [2006–2019][94]
    • T.O.P [2006-2022]
  • 2NE1 [2009–2016][95]
    • Minzy [2009–2016][96][97]
    • Park Bom [2009–2017]
    • CL [2009–2019]
    • Dara [2009–2021][98]
  • Psy [2010–2018]
  • Lee Hi [2012–2019][99]
  • Epik High [2012–2018]
  • Winner
    • Taehyun [2014–2016][100]
  • HIGHGRND Artists [2015–2018][e]
  • Hi Suhyun [2014–2019][f]
  • MOBB [2016–2019][g]
  • One [2015–2019][101]
  • Ikon
    • B.I [2015–2019][102]

  • Park Han-byul [2002–2004][93]
  • Jung Sung-il [2009–2011][93]
  • Heo Yi-jae [2009–2011][93]
  • Kang Hye-jung [2001–2013]
  • Stephanie Lee [2014–2017][103]
  • Lee Yong-woo [2014–2017]
  • Koo Hye-sun [2003–2017]
  • Jung Yoo-jin [2016–2018]
  • Lee Jong-suk [2016–2018]
  • Go Joon-hee [2017–2019]
  • Oh Sang-jin [2017–2019]
  • Kim Hee-jung [2016–2019]
  • Kim Sae-ron [2016–2019]
  • Im Ye-jin [2014–2019]
  • Wang Ji-won [2018–2020]
  • Nam Joo-hyuk [2013–2020]
  • Yoo Byung-jae [2015–2019]
  • Ahn Young-mi [2015–2020]

  • One Concert 2003 [Hàn Quốc]
  • Color of the Soul Train 2003 [Hàn Quốc]
  • One Concert 2004 [Hàn Quốc]
  • Thank U Concert 2005 [Hàn Quốc]
  • One Concert 2005 [Hàn Quốc]
  • 10th Anniversary World Tour 2006 [Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ]
  • One Concert 2007 [Hàn Quốc]
  • Concert 2010 [Hàn Quốc]
  • YG Family Concert 2012 [Hàn Quốc Nhật Bản]
  • YG Family Concert 2014:POWER [Vòng quanh thế giới]

  1. ^ a b c [와이지엔터테인먼트] 연결재무제표 기준 영업[잠정]실적[공정공시] [[YG Entertainment] Sales [provisional] performance based on consolidated financial statements [fair disclosure]] [bằng tiếng Hàn]. 11 tháng 11 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2021.
  2. ^ “YG Entertainment Major Stockholders”.
  3. ^ a b Song, Su-hyun [ngày 15 tháng 8 năm 2016]. “[KOSDAQ Star] Strong Japanese partner to defend YG from THAAD risk”. The Korea Herald. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
  4. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
  5. ^ Kim, JiYeon [ngày 19 tháng 5 năm 2012]. “KPOP NEWS - The History of Yang Hyun Suk and YG: From ′Boy′ to ′CEO′ [Pt. 1]”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  6. ^ “G-Dragon - 내 나이 열셋 [My Age is 13] Full MV”. YouTube. ngày 25 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  7. ^ Lee, Nancy [ngày 21 tháng 3 năm 2013]. “KPOP NEWS - [K-Pop Battle] Se7en vs. Rain”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  8. ^ “K-Pop Idols And The Formidable American Debut - KultScene”. KultScene [bằng tiếng Anh]. ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  9. ^ a b Park, Ga-young [ngày 30 tháng 5 năm 2018]. “YG Entertainment, fly or fail?”. The Investor [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2018.
  10. ^ “Big Bang's Global Influence: How to Build a Boy Band That Lasts”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2015.
  11. ^ [tiếng Triều Tiên] Kim, Hyeong-wu. 2NE1 아이돈케어 ‘힙합전사에서 귀여운 여인 깜짝 변신’ [2NE1's "I Don't Care" "Swift Change from Hip-Hop Warriors to Sweet Girls"]. IS Plus/Newsen. ngày 1 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2009.
  12. ^ Herman, Tamar [ngày 12 tháng 7 năm 2017]. “10 Best K-Pop Girl Groups of the Past Decade: Critic's Picks”. Billboard. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  13. ^ Liu, Marian [ngày 17 tháng 2 năm 2017]. “K-pop's growing pains: Why Asia's biggest bands are splitting up”. CNN. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2017.
  14. ^ “53rd Japan Record Award winners”. Tokyograph. ngày 20 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  15. ^ “AKB48 wins 53rd Japan Record Award”. Tokyograph. ngày 30 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 2 năm 2012.
  16. ^ Shamdasani, Pavan [ngày 9 tháng 11 năm 2009]. “How to Crack Japan: The Big Bang Theory”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
  17. ^ “YG Entertainment invests large amount of money in a new building for its artists”. Koreaboo [bằng tiếng Anh]. ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  18. ^ “YG Entertainment Moving to Own Company Building”. HanCinema [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  19. ^ “Korean entertainment firms fail to go public”. koreatimes. ngày 5 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  20. ^ “Psy reveals the reason why he joined YG Entertainment”. dkpopnews.net. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2012.
  21. ^ “The world's first global Korean pop star”. 4Music.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2012.
  22. ^ 'Gangnam Style' Most Watched YouTube Video Ever”. ABC News. ngày 29 tháng 11 năm 2012.
  23. ^ “Psy Reflects On Fifth Anniversary of 'Gangnam Style': 'I Still Don't Know Why It Was So Special'”. Billboard. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  24. ^ Cha, Seonjin. “Psy's 'Gangnam Style' Hits 1 Billion Views on YouTube”. Bloomberg. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2012.
  25. ^ “Has Psy's 'Gangnam Style' Helped Double Daddy's Stock?”. Yahoo Finance. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  26. ^ Kim, JiYeon [15 tháng 11 năm 2011]. “KPOP NEWS - Why Did YG Entertainment Sign Tablo and Psy?”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2016.
  27. ^ small_smiley [26 tháng 7 năm 2012]. “Epik High Signs with YG Entertainment”. Soompi. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  28. ^ “KPOP NEWS - [Interview] What Lee Hi Wants from YG and Yang Hyun Suk”. Mwave. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  29. ^ “Why did Akdong Musician choose YG Entertainment?”. Allkpop. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  30. ^ “YG Entertainment Signs On the 12-Year Old Bang Yedam from 'K-Pop Star Season 2'website=Ningin”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  31. ^ “Meet WINNER: K-Pop's Exciting New Boy Band”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  32. ^ enews24 전수미 기자 [ngày 20 tháng 1 năm 2014]. “차승원, YG패밀리 됐다…싸이·빅뱅과 한솥밥” [Cha Seung Won becomes YG family... labelmates with Psy and Big Bang]. enews24 [bằng tiếng Hàn]. enews24. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2014.
  33. ^ “YG Entertainment forms a strategic partnership with model management company K PLUS | allkpop.com”. www.allkpop.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  34. ^ “Choi Ji Woo Signs with YG Entertainment”. enewsWorld. ngày 26 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2016.
  35. ^ “Actress Choi Ji-woo joins YG Entertainment”. The Korea Herald. ngày 27 tháng 2 năm 2014.
  36. ^ “Actress Choi Ji-woo Joins YG Entertainment”. 10Asia. ngày 26 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2014.
  37. ^ “Hallyu icon joins YG Family”. Korea JoongAng Daily. ngày 27 tháng 2 năm 2014.
  38. ^ Mok, Fei Fei [ngày 13 tháng 9 năm 2014]. “L Capital Asia, YG Entertainment exploring potential tie-ups”. The Straits Times. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2014.
  39. ^ “YG Entertainment to unveil cosmetics brand 'moonshot' with a launching party | allkpop.com”. www.allkpop.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  40. ^ “Check Out Korea's Hottest New Beauty Brand”. Refinery29. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  41. ^ Steven Koh [ngày 17 tháng 1 năm 2015]. “YG Entertainment To Invest Nearly $100 Million Into K-Pop Culture Venue”. Kpopstarz. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2015.
  42. ^ “YG Entertainment Invests 16 Billion Won Into Expanding Headquarters”. news.nate.com. ngày 7 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  43. ^ “Epik High to Start Their Own Label Backed By YG Entertainment and Headed by Tablo”. Naver. Truy cập ngày 25 tháng 9 năm 2015.
  44. ^ “[단독]테디·쿠시, YG독립 레이블 만든다..양현석 직접 기획”. entertain.naver.com. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  45. ^ “YG Entertainment confirms iKON is indeed making their debut in September! | allkpop.com”. www.allkpop.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  46. ^ Benjamin, Jeff [ngày 30 tháng 6 năm 2017]. “Blackpink Score Third No. 1 on World Digital Song Sales Chart, Lead K-Pop Females”. Billboard. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018.
  47. ^ Zellner, Xander [ngày 25 tháng 6 năm 2018]. “BLACKPINK Makes K-Pop History on Hot 100, Billboard 200 & More With 'DDU-DU DDU-DU'”. Billboard. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2018.
  48. ^ Network, The Korea Herald/Asia News. “Sechs Kies inks contract with YG Entertainment”. entertainment.inquirer.net. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  49. ^ “젝스키스, YG서 빅뱅과 같은 대우조건 받는다”. 인사이트 [bằng tiếng Hàn]. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  50. ^ “KPOP NEWS - Sechs Kies Officially Joins YG Entertainment | Mwave”. mwave.interest.me. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2016.
  51. ^ Frater, Patrick [ngày 31 tháng 5 năm 2016]. “China's Tencent and Weiying Take $85 Million Stake in Korea's YG Entertainment”. Variety. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2016.
  52. ^ Herald, The Korea [ngày 10 tháng 5 năm 2016]. “Actor Lee Jong-suk signs with YG”. www.koreaherald.com. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2016.
  53. ^ Son, Ji-hyoung [ngày 18 tháng 1 năm 2016]. “YG clinches contract with Kang Dong-won”. K-pop Herald. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2016.
  54. ^ Cho, Na-young; Lee, Jae-ha [ngày 23 tháng 5 năm 2016]. “'꼭지-원빈조카' 김희정, YG와 전속계약 '새출발'”. OSEN [bằng tiếng Hàn]. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2016.
  55. ^ “YG 새 걸그룹, '블랙 핑크' 이름의 뜻은?[YG 새 걸그룹 최종발표③]”. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2016.
  56. ^ “YG's solo artist One debuts with 'One Day'. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  57. ^ “Watch: YG drops star-studded Mix Nine trailer”. SBS PopAsia [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  58. ^ “Yet another idol competition show unveiled in South Korea”. AsiaOne. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2017.
  59. ^ 뉴스, JTBC [ngày 15 tháng 11 năm 2017]. “'믹스나인' 대국민 투표 프로모션 영상 공개! 소년X소녀 '9'해줘” [bằng tiếng Hàn]. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2017.
  60. ^ “우진영 측 "'믹스나인' 데뷔 무산 맞다, 연습생으로 복귀"”. Newsen [bằng tiếng Hàn]. ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  61. ^ “[공식입장 전문] YG측 "'믹스나인' 데뷔 무산, 6곳 기획사와 협의 끝 결정..죄송"”. OSEN [bằng tiếng Hàn]. Naver. ngày 3 tháng 5 năm 2018.
  62. ^ Park, Jeong-yeob [ngày 23 tháng 2 năm 2018]. “Uncertainties lie ahead”. Mirae Asset Daewoo. Bản gốc [PDF] lưu trữ ngày 24 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2020.
  63. ^ Herman, Tamar. “TWICE Leads JYP Entertainment To Become No. 2 K-Pop Agency”. Forbes [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2018.
  64. ^ “[공식입장 전문] YG, 싸이와 8년만에 전속계약 종료.."아름다운 이별"”. entertain.naver.com.
  65. ^ OSEN [ngày 20 tháng 9 năm 2018]. “[공식입장] YG "新보이그룹 준비? 신인 나오는 것은 당연한 일"”. mosen.mt.co.kr [bằng tiếng Hàn]. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  66. ^ “트레저, 8월 7일 데뷔 확정..블핑 이후 4년만 YG 신인[공식]”. 스타뉴스 [bằng tiếng Hàn]. ngày 20 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  67. ^ Kim, Sohee; Kang, Shinhye [ngày 14 tháng 6 năm 2019]. “K-Pop Agency YG's Founder Quits as Artists Accused of Drug Use”. Bloomberg [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2019.
  68. ^ Kim, Arin [ngày 14 tháng 6 năm 2019]. “Yang quits as YG chief amid growing suspicions of drug offense cover-up”. The Korea Herald [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2019.
  69. ^ Herman, Tamar [ngày 14 tháng 6 năm 2019]. “YG Entertainment Founder Yang Hyun-Suk Leaves K-Pop Company Amid Turmoil”. Billboard [bằng tiếng Anh]. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2019.
  70. ^ //variety.com/2019/biz/asia/yg-agency-boss-quits-as-k-pop-scandals-expand-1203252481/
  71. ^ “YG Entertainment Appoints New CEO and Addresses Scandals”. E! Online [bằng tiếng Anh]. ngày 21 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2019.
  72. ^ Choi Pil-woo [ngày 6 tháng 5 năm 2021]. “SM·YG '우량→중견기업' 강등, JYP 홀로 '굳건'”. The Bell [bằng tiếng Hàn]. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2021.
  73. ^ McClure, Steve and Russell, Mark [ngày 11 tháng 6 năm 2005]. “Korean Pop Seeps Into Japan”. Billboard. Billboard. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả [liên kết]
  74. ^ “Big Bang”. Big Bang - Universal Music Japan. Universal Music Group. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  75. ^ “2NE1”. 2NE1 - Avex Official Website. Avex Group. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  76. ^ “It's Confirmed! Universal Records Will Release 2NE1 Albums!”. Universal Records Philippines Facebook Page. Facebook. ngày 20 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  77. ^ “Lucky Number for 2011 is Se7en”. Universal Records Philippines Facebook Page. Facebook. ngày 8 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  78. ^ “VIPs, You're Next”. Universal Records Philippines Facebook Page. Facebook. ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  79. ^ [tiếng Hàn]Lee, Jung Hyung [ngày 8 tháng 4 năm 2011]. “키이스트, SM, YG, JYP 등 6개사 아시아 매니지먼트 에이전시 'UAM' 설립! [KeyEast, SM, YG, JYP & more join forces to establish a new global agency, "United Asia Management"]”. Naver.com. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2011.
  80. ^ “MK News”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  81. ^ “UAM -United Asia Management”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2015.
  82. ^ “YGEX オフィシャルレーベルサイト” [YGEX Official Website]. YGEX [bằng tiếng Nhật]. YG Entertainment and Avex Group. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2011.
  83. ^ Hwang, Hye-jin [ngày 27 tháng 1 năm 2021]. “빅히트 측 "YG에 700억 규모 투자 단행, 음반음원 유통 사업 협업"[공식]”. Newsen [bằng tiếng Hàn]. Truy cập ngày 9 tháng 4 năm 2021.
  84. ^ “빅뱅 6월6일 새 앨범 발표 깜짝 선언!” [Album mới của BIGBANG được công bố vào ngày 6 tháng 6, một thông báo bất ngờ!] [bằng tiếng Hàn]. YG Family. 21 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021.
  85. ^ [tiếng Hàn]“YG, 2년 연속 1억원+@ 금액 기부”. Newsen. ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2011.
  86. ^ Lee, Hye-rin [ngày 15 tháng 3 năm 2011]. “YG, 日대지진 피해에 5억원 기부 결정” [YG Entertainment decided to donate 500 million won to earthquake victims]. Naver News [bằng tiếng Triều Tiên]. NHN Corp. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2011.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ [liên kết]
  87. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2017.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề [liên kết]
  88. ^ “강성훈, YG 전속계약 해지+젝스키스 활동 종료 "진심으로 사과"[전문]”. entertain.naver.com.
  89. ^ “YG "최근 마스타우 떠났다, 향후 음악활동 응원" 공식입장” [bằng tiếng Hàn]. xsportsnews. ngày 8 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2016.
  90. ^ “Yang Hyun Suk opens up about how his relationship with wife Lee Eun Joo began”. allkpop.
  91. ^ “Dok2, Masta Wu, Sojin, and Digital Masta to release collaboration track, "Finale"”. ngày 27 tháng 11 năm 2014.
  92. ^ “Archived copy”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 11 năm 2017. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2017.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề [liên kết]
  93. ^ a b c d e “FORMER MEMBERS [WAS IN YG]”. ngày 21 tháng 6 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2017.
  94. ^ “[공식] YG 측 "승리와 전속계약 종료..아티스트 관리 못한 점 인정·반성" [전문]”. 다음 연예. ngày 13 tháng 3 năm 2019.
  95. ^ “K-pop girl band 2NE1 breaks up”. ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  96. ^ '2NE1'에 대한 공식 입장”. YG Entertainment. ngày 5 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  97. ^ Doo, Rumy [ngày 5 tháng 4 năm 2016]. “Member Minzy to leave 2NE1”. Kpop Herald. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2016.
  98. ^ Son Ji-nah [ngày 14 tháng 5 năm 2021]. “산다라박, YG엔터테인먼트와 전속계약 만료[전문][공식]”. Maekyung Sports [bằng tiếng Hàn]. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2021.
  99. ^ “YG 측 "이하이와 전속계약 종료, 서로 앞날 응원하기로"[공식]” [bằng tiếng Hàn]. ngày 31 tháng 12 năm 2019.
  100. ^ “YG "위너 남태현 탈퇴 확정, 4인조 재편"[공식입장 전문]”. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2016.
  101. ^ 박정선 기자 [ngày 17 tháng 7 năm 2019]. “[인터뷰②] '굿바이썸머' 정제원 "YG와 계약 만료..1인 기획사 계획"” [bằng tiếng Hàn]. Naver. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021.
  102. ^ Yim, Hyun-su [ngày 12 tháng 6 năm 2019]. “B.I quits iKON over attempted drug purchase” [bằng tiếng Anh]. The Korea Herald.
  103. ^ “[공식입장] 스테파니 리, YNK엔터와 전속계약..임수정과 한솥밥”. OSEN [bằng tiếng Hàn]. ngày 26 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2017.

  • YG Entertainment trên Facebook
  • YG Entertainment trên Twitter
  • YG Entertainment trên Instagram
  • YG Entertainment trên YouTube


Lỗi chú thích: Đã tìm thấy thẻ với tên nhóm “lower-alpha”, nhưng không tìm thấy thẻ tương ứng tương ứng, hoặc thẻ đóng bị thiếu

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=YG_Entertainment&oldid=68617289”

Video liên quan

Chủ Đề